Nguyên tác đã phổ biến:
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hoả đối sầu miên.
Cô tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
|
Bản dịch của Tản Đà:
Trăng tà tiếng quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương đất hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn
|
Bây giờ xin được dịch
theo từng câu chữ, chưa nói tới âm điệu và vần:
- Nguyệt lạc =
trăng tàn, trăng mờ, trăng rụng đều đúng nghĩa.
- Ô đề = Ô là quạ
nhưng cũng là vầng ô (mặt trời). Ở đây phải hiểu là mặt trời, kim ô. Ô đề: Mặt
trời lên. Nguyên chữ: Trăng tàn dần, mặt trời đang ló dạng.
- Sương mãn thiên
= Sương phủ đầy bầu trời. Toàn cảnh là một bức tranh thủy mặc thật đẹp!
- Giang phong =
Nghĩa đơn giản là "gió sông" hay "dòng sông Phong".
- Ngư hỏa = Ngư
là cá, hỏa là lửa. Không rõ nghĩa nên được dịch rất nhiều kiểu như Tản Đà dịch
Lửa chài. Kỳ thực đúng chữ là "Cô hỏa", có nghĩa: ngọn lửa cô đơn.
- Đối = nghĩa là
đối chiếu, đối với, đối mặt…
- Sầu miên = chỉ
là buồn (sầu), ngủ (miên), cả danh từ hay động từ chung: buồn ngủ hay sự buồn
ngủ.
- Cô Tô thành ngoại
Hàn San tự chỉ là "Ở ngoại thành cô Tô có chùa Hàn Sơn".
- Bán dạ = nửa đêm
- Chung thanh =
Tiếng chuông
- Đáo khách thuyền
= khách (người) trở về thuyền.
Đây là một trong những
bài thơ mà mình rất thích.
PUT
Ngày
21/8/2012