Tuesday, August 21, 2012

PHONG KIỀU DẠ BẠC_Trương Kế

Nguyên tác đã phổ biến:
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hoả đối sầu miên.
Cô tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Bản dịch của Tản Đà:
  Trăng tà tiếng quạ kêu sương
  Lửa chài cây bến sầu vương đất hồ
  Thuyền ai đậu bến Cô Tô
  Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn

Bây giờ xin được dịch theo từng câu chữ, chưa nói tới âm điệu và vần:
- Nguyệt lạc = trăng tàn, trăng mờ, trăng rụng đều đúng nghĩa.
- Ô đề = Ô là quạ nhưng cũng là vầng ô (mặt trời). Ở đây phải hiểu là mặt trời, kim ô. Ô đề: Mặt trời lên. Nguyên chữ: Trăng tàn dần, mặt trời đang ló dạng.
- Sương mãn thiên = Sương phủ đầy bầu trời. Toàn cảnh là một bức tranh thủy mặc thật đẹp!
- Giang phong = Nghĩa đơn giản là "gió sông" hay "dòng sông Phong".
- Ngư hỏa = Ngư là cá, hỏa là lửa. Không rõ nghĩa nên được dịch rất nhiều kiểu như Tản Đà dịch Lửa chài. Kỳ thực đúng chữ là "Cô hỏa", có nghĩa: ngọn lửa cô đơn.
- Đối = nghĩa là đối chiếu, đối với, đối mặt…
- Sầu miên = chỉ là buồn (sầu), ngủ (miên), cả danh từ hay động từ chung: buồn ngủ hay sự buồn ngủ.
- Cô Tô thành ngoại Hàn San tự chỉ là "Ở ngoại thành cô Tô có chùa Hàn Sơn".
- Bán dạ = nửa đêm
- Chung thanh = Tiếng chuông
- Đáo khách thuyền = khách (người) trở về thuyền.
Đây là một trong những bài thơ mà mình rất thích.

                                                                   PUT
                                                          Ngày 21/8/2012

No comments:

Post a Comment