Một buổi trưa hè oi ả ở một làng quê Việt Nam
, bốn ông đồ nho (chùm) tụ họp trà nước và tán dóc như thường lệ. Hôm nay trời nóng hơn mọi hôm! Chủ nhà, Đồ Gàn, gọi tiểu đồng ra pha thêm trà, rồi bảo 3 người bạn:
- Nói chuyện gẫu mãi cũng chán! Tôi đề nghị mình làm thơ đi!
Đồ Hàn góp ý:
- Ý này cũng hay, chúng ta bốn người tất là làm được một bài thơ Tú Tuyệt để lại cho hậu chúng!
Cử Tạ lên tiếng: "Thơ thì xong rồi, nhưng lấy gì làm đề?"
Thế là bốn ông toáng cả lên để chọn đề tài bài thơ. Sau cùng, ông Nghè Đe mới tủm tỉm:
- Hay thế bây giờ mình làm bài thơ Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt để vịnh cái khoái của đời. Mỗi người làm một câu, thế là tứ khoái!
Tất cả đồng ý. Đồ Gàn nhìn trời nóng chang chang, ruộng đất nứt nẻ, ứng khẩu đọc lên:
- Đại hạn phùng cam lộ (Trời hạn hán, gặp mưa trong).
Cử Tạ vốn là người xứ khác, một mình lạc đến vùng này, lúc nào cũng cảm thấy cô độc. Buồn cảnh đất khách quê người, ông thốt lên:
- Tha hương ngộ cố tri (Xa nhà gặp lại bạn cũ).
Mọi người quay nhìn Nghè Đe. Bây giờ Nghè ta mới giật mình vì không biết tả cái khoái gi. Nhìn quẩn nhìn quanh, chợt ông thấy hai con thạch sùng đang quấn đuôi trên trần nhà, đắc chí, Nghè Đe rung đùi rồi đọc:
- Động phòng hoa chúc dạ (Động phòng đêm tân hôn).
Tới câu chót là của Đồ Hàn. Đồ Hàn công danh lận đận, thi hỏng mãi phải quay về làng đi dạy học. Nghĩ đến đời mình, Đồ Hàn lẩm bẩm than:
- Kim bảng quải danh thì (Bảng vàng đề tên).
Thế là bốn ông Nho chùm ngồi vuốt râu và vừa đọc lại thơ, vừa khen lấy nhau...
Lúc bấy giờ, thằng tiểu đồng pha trà đi ngang, nghe lỏm thơ, cứ lắc đầu. Tinh mắt, ông Nghè mới bảo thằng tiểu đồng:
-Mày thấy bài thơ tả bốn cái khoái trên đời này không đúng sao mà cứ lắc đầu mãi?
Tiểu đồng:
- Thưa cụ, bài thơ quả có hay và tả đúng bốn cái khoái, nhưng con thấy vẫn còn chưa thật là khoái ạ!
- Thế làm sao mới thật là khoái?
- Dạ thưa cụ, con nghĩ nếu thêm vào mỗi câu hai chữ nữa thì mới thật là khoái ạ!
- A cái thằng giỏi nhỉ! Mày mà biết thơ với thúng gì... Thơ Ngũ Ngôn mà lại thêm vào hai chữ thì thành Thất Ngôn à? Các cụ nhao nhao lên mắng thằng tiểu đồng, làm thằng bé hốt hoảng nín thinh, ứa nước mắt.
Đồ Hàn lên tiếng bênh thằng tiểu đồng:
- Thôi các cụ cứ để cho nó nói hết! Mày cứ nói đi, nếu không ra gì thì chết với các cụ!
Tiểu đồng lấm la lấm lét rồi nói rằng:
- Thưa cụ, câu thứ nhất thì con nghĩ nên thêm vào "Thập niên". Nói xong nó đứng khoanh tay nhìn xuống đất.
Các cụ nhìn nhau. Thằng này cũng có lý vì nếu là mười năm hạn hán mà được mưa thì thật là càng khoái hơn nữa!
- Thế rồi câu thứ hai? Một cụ hỏi.
- Dạ con thêm vào "Lữ khách" vì xa nhà đã buồn, mà xa nhà một mình, bây giờ gặp bạn cũ thì thích lắm ạ.
Các cụ gật gật đầu, có vẻ đồng ý. Nhưng đợi mãi, không thấy thằng tiểu đồng nói gì. Sốt ruột, một cụ lên tiếng giục. Tiểu đồng đỏ mặt:
- Thưa cụ con không dám.
Đồ Gàn:
- Mày cứ nói, các cụ tha cho.
Tiểu đồng:
- Dạ con xin thêm vào câu này "Tu sĩ"!!!
Các cụ mỉm cười. Động phòng đã là thú rồi, mà lại là tu sĩ chưa bao giờ hưởng mùi vị thì chắc chắn là tuyệt.
Không đợi các cụ, tiểu đồng thêm vào:
- Còn câu cuối, con xin thêm vào "Hàn nho" vì thi đậu là thích, mà một nho sĩ nghèo, thi đậu để mang lại no ấm cho gia đình thì quả không gì bằng...
Nghe đến đây, Đồ Hàn quay đi.
Thế là bài thơ Tứ Tuyệt Khoái trở thành:
Thập niên Đại hạn phùng cam lộ
Lữ khách Tha hương ngộ cố tri
Tu sĩ Động phòng hoa chúc dạ
Hàn nho Kim bảng quải danh thì.
Dịch thơ:
Mười năm hạn hán, gặp mưa trong
Tu sỹ khoái chí đêm động phòng
Một mình xa quê gặp bạn cũ
Nho nghèo bảng nhãn thỏa ước mong.
[PUT sưu tầm & dịch thơ]
Ngày 20/9/2012