Sunday, October 7, 2012

10 đế chế tồn tại lâu nhất trong lịch sử nhân loại

Trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, chúng ta đã từng chứng kiến biết bao đế chế nổi lên rồi suy tàn. Con người có thể học hỏi được nhiều thứ từ thành tựu cũng như sai lầm của những đế chế vĩ đại đã tạo ra trong quá khứ.

Từ "đế chế" có nhiều cách hiểu khác nhau, không có định nghĩa khoa học mang tính chính xác tuyệt đối nào cho nó. Danh từ này thường bị sử dụng sai và bị bóp méo bởi lý do chính trị. Định nghĩa đơn giản nhất về một đế chế là thể chế chính trị áp đặt quyền chi phối lên một thể chế khác, và kiểm soát các quyết định chính trị của quốc gia khác yếu hơn. Vậy những đế chế nào đã từng tồn tại lâu nhất và chúng ta có thể học hỏi điều gì từ họ. Bài viết sẽ điểm lại 10 đế chế tồn tại lâu nhất trong quá khứ và điều gì đã dẫn tới sự sụp đổ của những đế chế từng một thời được coi là hùng mạnh trong khu vực và thậm chí là trên cả thế giới.

 1. Đế chế Đông La Mã

Đế chế La Mã không chỉ là đế chế nổi tiếng nhất trong lịch sử, mà còn là đế chế tồn tại lâu nhất. Đế chế này kéo dài qua nhiều thời kỳ khác nhau, từ năm 27 trước CN cho tới năm 1453 sau CN - tổng cộng 1.480 năm. Thể chế cộng hòa trước đó đã bị lật đổ bởi cuộc tranh giành quyền lực, dẫn đến việc bổ nhiệm Julius Caesar trở thành hoàng đế. Đế chế mở rộng trên trên vùng đất là Italia ngày nay và phần lớn khu vực Địa Trung Hải. Hoàng đế Diocletian đã đặt ra một chính sách quan trọng để bảo đảm sự cai trị lâu dài cho đế chế của mình. Ông nhận thấy rằng Đế chế La Mã quá lớn và có quá nhiều áp lực từ bên trong lẫn các mối đe dọa từ bên ngoài, chỉ một vị hoàng đế thì khó lòng cai trị được. Do đó, ông chia Đế chế ra làm hai nửa Đông và Tây (với ranh giới ở vùng Đông Ý). Hai bên sẽ có hai vị hoàng đế ngang quyền nhau cùng mang Đế hiệu Augustus. Sự phân chia này là tiền thân của Đế chế Tây La Mã và Đế chế Đông La Mã.

Đế chế Tây La Mã sụp đổ vào năm 476 sau Công nguyên, khi các lực lượng người German nổi dậy và buộc Romulus Augustus thoái vị. Trong khi đó Đế chế Đông La Mã tiếp tục phát triển thịnh vượng sau năm 476, được biết đến với tên gọi phổ biến là Đế chế Byzantine.

Xung đột giữa các tầng lớp xã hội đến nội chiến trong giai đoạn 1341-1347 sau Công nguyên, đã làm Byzantine suy yếu và tạo điều kiện để đế chế của người Serbia giành lại một số vùng đất nằm dưới sự cai trị của Byzantine. Dưới tình trạng bất ổn xã hội ngày càng tăng kết hợp với bệnh dịch hạch, Byzantine cuối cùng cũng sụp đổ khi Đế quốc Ottoman đã chiếm Constantinople vào năm 1453.

Mặc dù chiến lược hai hoàng đế cùng trị vì của Diocletian thực sự đã giúp kéo dài sự tồn tại của đế chế La Mã nhưng cũng chỉ đem lại kết cục giống như các thế lực cầm quyền khác vì cộng đồng dân tộc đa dạng và người dân ở các vùng đất bị cai trị cuối cùng cũng đứng lên đòi quyền tự trị.

10 đế chế kể trên là những đế chế tồn tại lâu nhất trong lịch sử, và đều tồn tại trong mình hạn chế nhất định. Cho dù đó là quản lý khai thác tài nguyên hay nhân lực, không có đế chế nào đủ khả năng để kiểm soát bất ổn xã hội do chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư, tình trạng thất nghiệp và cạn kiệt nguồn tài nguyên. Đây chính là bài học để các quốc gia ngày nay phát triển, tránh đi vào vết xe đổ của các quốc gia trong quá khứ.

2. Đế chế Kush

Đế chế Kush tồn tại từ năm 1070 trước Công nguyên đến năm 350 sau Công nguyên trên vùng đất ngày nay là Cộng hòa Sudan. Không có nhiều thông tin chính xác về thể chế chính trị của đế chế Kush tuy nhiên có một số bằng chứng về sự tồn tại của chế độ quân chủ vào giai đoạn cuối. Tuy nhiên, Kush đã chi phối nhiều quốc gia nhỏ hơn và thành công trong việc duy trì quyền lực trong khu vực, đồng thời mở rộng về phía nam để chinh phục các vùng đất giàu tài nguyên gỗ mà họ rất cần tới. Nền kinh tế của Kush phụ thuộc chủ yếu trao đổi sắt và vàng.

Một số bằng chứng cho thấy đế chế đã bị tấn công từ các bộ lạc xung quanh, nhưng các học giả khác cho rằng nền kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào khai thác sắt đã dẫn tới phá rừng tràn lan, buộc người dân di cư sau khi đã hết gỗ để nấu và chế tạo sắt.

Trong khi các đế chế khác sụp đổ vì chính sách cai trị hà khắc với người dân của họ hoặc quan hệ bang giao không tốt đẹp vớicác nước láng thì nguyên nhận chính làm đế chế Kush đi đến diệt vong lại nằm ở yếu tố tự nhiên.

 3. Đế chế Venetian (Cộng hòa Venice)

Niềm tự hào của đế chế Venetian là hạm đội hải quân hùng mạnh, lực lượng đã giúp họ xưng bá khắp châu Âu và Địa Trung Hải, và chinh phục những thành phố cực kì quan trọng trong lịch sử là Síp và Crete. Đế chế này tồn tại trong 1.100 năm, từ 697 đến 1797 sau Công nguyên. Trải qua rất nhiều biến cố, đế chế liên tục mở rộng và được bến đến với tên gọi khác là Cộng hòa Venice, là kết quả sau các cuộc chiến với người Thổ và đế quốc Ottoman.

Chiến tranh mở rộng lãnh thổ đã làm đế quốc Venetian suy yếu khả năng phòng ngự. Sau khi thành phố Piedmont về tay người Pháp, hoàng đế Napoleon Bonaparte đã nắm giữ toàn bộ đế quốc này. Napoleon đưa ra tối hậu thư buộc Doge Ludovico Manin đầu hàng vào năm 1797 và lên nắm quyền cai trị hoàn toàn Venice.

Cộng hòa Venice là một ví dụ cổ điển về một đế chế cố gắng mở rộng biên giới tới mức còn không đủ khả năng phòng vệ tại chính thủ đô. Không giống như các đế quốc khác, nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ không phải nội chiến mà là chiến tranh với các nước láng giềng. Venetian được đánh giá cao về lực lượng hải quân, lực lượng luôn sẵn sàng ở thế tấn công, nhưng lại bị phân tán quá mỏng dẫn tới Venetian mất khả năng phòng vệ trước sự tấn công từ xung quanh.

4. Đế chế Silla

Có rất ít thông tin về giai đoạn khởi đầu của đế chế Silla, nhưng chúng ta biết rằng vào khoảng thế kỷ thứ sáu, xã hội Silla rất phức tạp, một xã hội dựa trên phả hệ và dòng máu huyết thống. Hệ thống xã hội như vậy đóng vai trò quan trọng giúp đế chế này chiếm được đất đai trong thời kì đầu mở rộng lãnh thổ, nhưng cuối cùng cũng đưa Silla dẫn đến diệt vong như bao đế chế khác.
 Đế chế Silla bắt đầu từ năm 57 trước Công nguyên trên khu vực hiện nay là Bắc và Nam Triều Tiên bởi Kin Park Hyeokgeose. Dưới sự cai trị của ông, Silla liên tục mở rộng lãnh thổ, chinh phục một số các vương quốc khác trên bán đảo Triều Tiên. Trong thế kỷ thứ bảy nhà Đường ở Trung Quốc và đế chế Silla đã rơi vào tình trạng chiến tranh khi tranh giành vương quốc ở phía bắc Goryeo, nhưng cuối cùng người Silla đã thành công.

Một thế kỷ nội chiến giữa các gia tộc cũng như ở các quốc gia bị chinh phục đã làm Silla suy yếu. Cuối cùng, sau gần 1000 năm trị vì, vào năm 935 sau Công nguyên Silla đã tan rã và trở thành một phần của quốc gia mới Goryeo. Các nhà sử học không biết chính xác những nguyên nhân cụ thể nào đã dẫn đến sự sụp đổ của đế chế Silla, nhưng có nhiều ý kiến cho rằng các quốc gia láng giềng đã cảm thấy bất an với quá trình bành trướng lãnh thổ của Silla trên bán đảo Triều Tiên. Một số học thuyết khác cho rằng có thể các tầng lớp thấp kém hơn trong xã hội đã nổi dậy để giành lại quyền tự trị.

5. Thánh chế La Mã (Đế chế La Mã thần thánh)

Thánh chế La Mã là kết quả của những nỗ lực nhằm khôi phục Đế chế Tây La Mã và thể hiện sự phản kháng chính trị chống lại Giáo Hội Công Giáo La Mã. Nếu như Hoàng đế La Mã là danh hiệu dành cho những người cai trị đế chế La Mã, mang chức trách quan trọng là người bảo vệ cho Giáo hội Công giáo Rome, và lên nắm quyền lực thông qua bầu cử giống như vị hoàng đế La Mã đầu tiên - Agustus, thì hoàng đế đầu tiên của Thánh chế La Mã - Otto I lại được trao vương miện bởi Đức Giáo Hoàng ở Rome. Đế chế tồn tại từ 962 đến 1806 sau Công nguyên và bao gồm khu vực địa lý rộng lớn mà ngày nay là vùng Trung Âu trong đó gồm toàn bộ nước Đức ngày nay.

Đế chế được khai sinh khi Otto I lên trị vì nước Đức, và ông đã được biết đến là hoàng đế đầu tiên của đế chế La Mã thần thánh. Có thời điểm, đế chế đã phát triển hết sức mạnh mẽ, bao trùm một diện tích lên tới 300 vùng lãnh thổ khác nhau. Vào năm 1648, sau khi “cuộc chiến 30 năm” kết thúc Thánh chế La Mã bị chia nhỏ, và châm ngòi cho sự độc lập của các quốc gia sau này. Đây cũng là cuộc chiến tôn giáo cuối cùng ở Châu Âu khiến cho La Mã thần thánh bị tàn phá nặng nề, nhiều thành thị và vùng nông thôn bị san bằng, dân số suy giảm.

Đến năm 1806, Napoleon Bonaparte đã buộc Hoàng đế cuối cùng của Thánh chế La Mã, Francis II phải thoái vị và tổ chức lại đế chế cũ và một số vùng đất mới chính phục của người Áo và người Nga để lập nên Liên bang sông Rhine. Tương tự như đế chế Ottoman và Bồ Đào Nha, hạ tầng xã hội của Đế chế La Mã thần thánh là nhiều quốc gia nhỏ bé của các dân tộc với nguồn gốc khác nhau. Sau sự bùng nổ phong trào độc lập ở những quốc gia này, đế chế bị suy yếu nhanh chóng rồi đi đến diệt vong.

6. Đế chế Kanem

Chúng ta biết rất ít về đế chế Kanem - hầu hết kiến thức ngày nay về đế quốc này bắt nguồn từ một văn bản được phát hiện vào năm 1851 - Girgam. Qua thời gian, tôn giáo chính của đế quốc là Hồi giáo, tuy nhiên mâu thuẫn tôn giáo đã gây ra những xung đột nội bộ trong những năm đầu của đế chế. Đế chế Kanem được thành lập vào khoảng 700 và kéo dài cho đến năm 1376. Lãnh thổ Kanem trải rộng trên Chad, Libya và một phần của Nigeria ngày nay.

Theo văn bản nói trên, người Zaghawa đầu tiên thành lập thành phố N'jimi của họ vào khoảng những năm 700. Lịch sử của đế quốc được phân chia thành hai triều đại khác nhau, Duguwa và Sayfawa. Quá trình mở rộng lãnh thổ của vương quốc kéo dài liên tục nhờ vào các cuộc thánh chiến chống lại tất cả các bộ tộc xung quanh.

Hệ thống quân đội ra đời  tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc thánh chiến (jihad) đã tạo ra một hệ thống chính quyền “cha truyền con nối”. Binh lính khi chinh phục được một vùng đất được trao thưởng chính vùng đất đó, và có quyền truyền lại cho con trai. Hệ thống này đã dẫn đến nội chiến làm đế chế suy yếu và dễ bị tấn công. Người Bulala đã nhanh chóng chiếm N'jimi vào năm 1376 và cuối cùng là giành quyền kiểm soát toàn bộ đế chế Kanem.

Bài học từ đế chế Kanem là quyết định cai trị có thể tạo ra xung đột từ bên trong, và từ đó dẫn tới sự suy tàn - một câu chuyện lặp lại khá nhiều trong lịch sử nhân loại.

7. Đế chế Ethiopia

Trong suốt chiều dài lịch sử , chúng ta biết rất ít về các hoạt động của Đế quốc Ethiopia. Ethiopia và Li-bê-ri-a là hai quốc gia duy nhất ở châu Phi giữ vững được chủ quyền trong thời kì người châu Âu “tranh giành châu Phi”. Quá trình trị vì lâu dài của đế quốc bắt đầu vào khoảng năm 1270 sau Công nguyên, khi nhà Solomonid lật đổ triều đại Zagwe, tuyên bố họ sở hữu các quyền đối với đất với vị thế là hậu duệ của vua Solomon, và chuyển dịch quyền lực cho người Habesha. Từ đó, triều đại đã trở thành một đế chế bằng đưa các nền văn minh non trẻ khác trên lãnh thổ Ethiopia đặt dưới quyền cai trị.

Mãi cho đến năm 1895, khi Ý tuyên chiến, đế chế Ethiopia bắt đầu suy yếu. Ethiopia đã tổ chức xâm lược của nó, nhưng Italy không được thực hiện. Năm 1935, Benito Mussolini đã ra lệnh xâm lược Ethiopia trong một cuộc chiến tranh bảy tháng trước. Người Ý sau đó chiến thắng và cai trị Ethiopia từ năm 1936 cho đến năm 1941.

Vương quốc Ethiopia không mở rộng lãnh thổ hoặc lâm vào tình trạng suy kiệt nguồn tài nguyên như các ví dụ trước. Thay vào đó, Ethiopia lại có nguồn tài nguyên mà các quốc gia mạnh hơn thèm muốn, đặc biệt là cà phê. Nội chiến đã góp phần làm đế chế này suy yếu và cuối cùng sự xâm chiếm của người Ý mở rộng dẫn đến sụp đổ của Ethiopia.

8: Đế chế Khmer

Đế chế Khmer có thể không nổi danh như những đế chế khác, tuy nhiên, thủ đô Angkor của người Khmer lại là kiệt tác văn hóa, một phần nhờ vào đền Angkor Wat, một trong những di tích tôn giáo lớn nhất thế giới, được xây dựng trong thời gian phồn thịnh nhất của đế chế Khmer. Đế quốc Khmer bắt đầu khoảng 802 sau Công nguyên khi Jayavarman II đã lên cai trị vùng đất tương ứng với lãnh thổ Cam-pu-chia ngày nay. Hơn 630 năm sau, năm 1432, đế chế này đã tan rã.

Phần lớn những gì chúng ta biết về đế chế này xuất phát từ những bức họa trên đá, cũng như các ghi chép của nhà ngoại giao Trung Quốc, Chu Đạt Quan, từng đến Angkor năm 1296, và xuất bản một cuốn "Phong tục Campuchia” kể về những trải ngiệm của ông. Nổi bật trong chiều dài lịch sử của đế chế là các cuộc chiến tranh người Khmer tiến hành để mở rộng và chiếm đóng các vùng đất xung quanh. Angkor là nơi ở chính của tầng lớp quý tộc vào nửa cuối giai đoạn tồn tại của đế chế. Những nền văn minh xung quanh cố gắng giành quyền kiểm soát Angkor khi sức mạnh của người Khmer bắt đầu suy yếu.
Có nhiều lý thuyết giải thích cho lý do tại sao đế chế của người Khmer lại đi vào suy tàn. Một số người tin rằng một vị vua áp dụng triết lý Phật giáo tiểu thừa để cai trị vương quốc, đã dẫn đến sự suy giảm lực lượng lao động, sự xuống cấp của hệ thống thủy lợi, và cuối cùng là mùa màng. Bên cạnh đó có học thuyết cho rằng vương quốc của người Thái - Sukhothai đã chinh phục Angkor trong năm 1400. Những người khác tin sự suy sụp của đế quốc này xuất phát từ sự chuyển giao quyền lực đến thành phố Oudong, để lại thành phố Angkor bị rơi vào quên lãng. Dù gì thì đế chế Khmer vẫn là một ví dụ cho sự phát triển quá nhanh trong khi chưa duy trì được sức mạnh nội tại nên bị diệt vong là điều tất yếu.

9. Đế chế Ottoman

Ở gian đoạn cực thịnh nhất, Đế chế Ottoman trải rộng qua ba châu lục và bao phủ một phạm vi rộng các nền văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ. Bất chấp những khác biệt văn hóa này, đế chế vẫn phát triển thịnh vượng trong 623 năm, từ 1299 đến 1922 sau Công nguyên.

Đế chế Ottoman lúc mới đầu chỉ là một quốc gia nhỏ của người Thổ sau khi Đế quốc Byzantine suy yếu và rút khỏi khu vực này. Osman đệ nhất đã đưa ranh giới của đế chế mở rộng ra bên ngoài, dựa vào hệ thống tư pháp, giáo dục và quân sự hùng mạnh cũng như một phương pháp chuyển giao quyền lực độc đáo.

Đế chế này mở rộng và cuối cùng đã chiếm Constantinople năm 1453, và tiến sâu hơn vào lãnh thổ châu Âu và Bắc Phi. Nội chiến trong những năm đầu 1900 - ngay trước chiến tranh thế giới thứ I và phong trào nổi dậy của người Ả Rập đã báo hiệu sự kết thúc khó tránh khỏi. Sau khi chiến tranh thế giới thứ I kết thúc, Hiệp ước Sèvres đã chia cắt phần lớn lãnh thổ của Đế quốc Ottoman. Đế chế sau đó đã suy tàn sau chiến tranh giành độc lập của Thổ Nhĩ Kỳ dẫn đến sự sụp đổ của Constantinople vào năm 1922.

Lạm phát và thất nghiệp thường được coi là những yếu tố chính làm sụp đổ đế chế Ottoman. Mỗi phần nhỏ của vương quốc rộng lớn này rất đa dạng về văn hóa và kinh tế, và cuối cùng dẫn đến các phong trào nổi dậy giành độc lập từ bên trong do những yếu kém trong quản lý của chính quyền.

10. Đế chế Bồ Đào Nha

Đế chế Bồ Đào Nha nổi tiếng với một trong những hạm đội đội tàu chiến hải quân hùng mạnh nhất thế giới trong lịch sử. Không nhiều người biết rằng đế chế này đã nắm giữ mảnh đất cuối cùng cho tới tận năm 1999. Người Bồ Đào Nha bắt đầu đế chế của họ, từ năm 1415, khi chiếm Cueta, một thành phố Hồi giáo ở Bắc Phi và mở rộng cai trị cho tới khi họ di chuyển vào châu Phi, Ấn Độ, Châu Á và cuối cùng là Châu Mỹ. Đây là đế chế đầu tiên trong lịch sử trải rộng trên bốn châu lục.

Sau Thế chiến II, phong trào giải phóng dân tộc bùng nổ trên thế giới, dẫn tới nhiều nước châu Âu phải rút khỏi các thuộc địa. Nhưng mãi tới năm 1999, Bồ Đào Nha mới trao trả Macau về Trung Quốc, và chấm dứt sự tồn tại của đế chế 584 năm tuổi.

Đế chế Bồ Đào Nha mở rộng nhanh chóng bởi các loại vũ khí tuyệt vời, uy lực hải quân và khả năng thiết lập nhanh chóng hệ thống cảng biển để buôn bán đường, nô lệ và vàng. Đế chế này cũng có đủ nhân lực để nhanh chóng chinh phục và cai trị các vùng đất. Tuy nhiên, giống như hầu hết các đế chế khác trong lịch sử, những vùng bị chinh phục cuối cùng cũng tìm được cách đòi lại đất đai của họ.

Đế chế Bồ Đào Nha sụp đổ do một số yếu tố bao gồm cả áp lực quốc tế và sức ép về mặt kinh tế.

                                                                                     [PUT sưu tầm]
                                                                                    Ngày 07/10/2012

10 vị tướng vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới

Tháng 2 năm 1984, Hội đồng khoa học Hoàng gia Anh đã xét phong 10 vị tướng tài của thế giới, chọn trong 98 vị từ cổ đại đến hiện đại. Chân dung 10 vị tướng được đung tượng vàng và đặt trang trọng ở Viện bảo tàng lớn nhất Luân Đôn. Việt Nam vinh dự là nước có có hai người con ưu tú, đó là Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo- Đại vương Trần Quốc Tuấn (cháu của vua Trần Thái Tông) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Thời kỳ Cổ đại:

1. Alexandros Đại Đế
Alexandros Đại Đế ( Megas Alexandros; tháng 7 năm 356 TCN – 11 tháng 6 năm 323 TCN), cũng được biết đến như là Alexandros III, là vua của xứ Macedon (336–323 TCN) và được xem là một trong những nhà chỉ huy quân sự thành công nhất trong lịch sử, người đã chinh phục gần như toàn bộ thế giới mà ông biết trước khi chết; ông thường được đứng trong cùng một danh sách với Napoléon Bonaparte, Julius Caesar và Thành Cát Tư Hãn như là một trong những nhà chiến lược quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử. Tiếp sau sự thống nhất các thành bang Hy Lạp cổ đại dưới sự cai trị của cha ông, Philip II xứ Macedon, (một việc Alexandros phải lặp lại hai lần vì các miền phía nam Hy Lạp nổi loạn sau khi Philip chết), Alexandros chinh phục Đế chế Ba Tư, bao gồm cả Anatolia, Syria, Phoenicia, Gaza, Ai Cập, Bactria và Lưỡng Hà và mở rộng biên cương đế chế của ông đến xa tận Punjab. Alexandros thực hiện một chính sách hòa hợp: ông đưa cả những người ngoại quốc (không phải người Hy Lạp hay người Macedon) vào chính quyền và quân đội của mình, ông khuyến khích hôn nhân giữa quân của mình với người nước ngoài và chính ông cũng lấy vợ ngoại quốc.
Sau mười hai năm liên tục tổ chức các chiến dịch quân sự, Alexandros chết, có lẽ là do sốt rét, thương hàn, hay viêm não do virút. Những cuộc chinh phạt của ông mở đầu cho nhiều thế kỉ định cư và thống trị của người Hy Lạp trên nhiều vùng đất xa xôi, một giai đoạn được gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa. Bản thân Alexander sống trong lịch sử và trong các truyền thuyết của các nền văn hóa Hy Lạp và không Hy Lạp. Ngay khi ông còn sống, và đặc biệt sau khi ông chết, những cuộc chinh phạt của ông đã là nguồn cảm hứng của một truyền thống văn học mà trong đó ông xuất hiện như là một anh hùng huyền thoại theo truyền thống của Achilles.
Các chiến tích của Alexan Dros với tham vọng chinh phục châu Á:
-Năm 334 khi mới 22 tuổi chinh phục toàn bộ Hy Lạp său đó cầm đầu đạo quân 37000 quân tiến về phía đông lấy hết phần tiểu Á đến tận Jerusalem tiến vào Ai Cập, Libye. Tại Ai Cạp xây dựng thành phố Alexandrie phồn thinh nhất thời Hy Lạp.
-Năm 331 đem quân vượt quaTigre, đánh bại đạo quân hùng hậu của vua Darius của Ba tư (Babilon trong Aoe, Iran ngày nay), sau đó chinh phục tất cả các thành phố vùng Trung cận đông cho đến bờ biển Ấn Độ (persian trong Aoe). Nhưng sau đó bị mất đọt ngôt khi tham vọng châu Á vẫn còn dang dở.
2. Hannibal: Hy Lạp (247- 183 TCN).
Hannibal là một tướng trẻ 25 tuổi trở thành tổng chỉ huy quân Carthage ở TBN. Lúc đầu, Hannibal cho phép người Saguntum sử dụng các bến cảng rộng lớn để tránh xung đột với La Mã. Nhưng Saguntum với giúp đỡ của người đồng minh La Mã, bắt đầu chơi trò chính trị với các thành phố TBN khác. Bỏ qua những đe dọa trực tiếp từ La Mã, Hannibal tấn công và chiếm giữ Saguntum. La Mã cố gắng thu xếp vấn đề này bằng con đường ngoại giao. Họ yêu cầu Carthage cách chức Hannibal và đưa ông này đến Rome. Chiến tranh Punic lần 2 nổ ra năm 218 trước cn khi Carrthage khước từ yêu cầu này. Nhưng lần này, La Mã phải đối mặt với 1 địch thủ đáng sợ. Trong thời gian sau cuộc chiến lần 1, Carthage đã tạo ra 1 đội quân hùng mạnh. Hannibal đã đưa đội quân này đi dọc Châu Âu và tháng 9 năm 218, ông đưa quân Carthage vượt dãy Alpes bắt đầu cuộc xâm lược Italy. Dù mệt mỏi vì quãng đường vận động chiến, Hannibal vẫn ngay lập tức đập tan quân La Mã ở phía bắc Italy. Chiến thắng ngoạn mục này đã khiến nhiều chiến binh du mục Gaul gia nhập đoàn quân của Hannibal nâng tổng số quân của ông lên trên 50000. Chiến thắng của Hannibal trước người La Mã được đảm bảo bằng việc thuyết phục các đồng minh của La Mã và sát nhập nhiều thành phố vào Carthage.
Người La Mã hiểu rằng họ không thể đánh bại Hannibal. Tuyệt vọng, La Mã trao quyền cho nhà độc tài Quintus Fabius Maximuss. Fabius ra lệnh tránh chiến tranh trực diện bằng mọi giá, chỉ đánh du kích cho tới khi quân Carthage suy yếu đủ để tấn công trực diện. Nhưng khi Hannibal hành quân tới Cannae (trận Can) năm 216 trước cn, Fabius đưa 1 đội quân 80000 người ra chống lại. Đội quân này ngay lập tức bị Hannibal tiêu diệt hoàn toàn, đây là thất bại lớn nhất Rome từng trải qua. Các đồng minh phía Nam Italy của La Mã chạy sang phía Hannibal, toàn bộ Sicily trở thành đồng minh của Carthage. Thêm vào đó, vua Philip V xứ Macedon, người kiểm soát hầu hết lãnh địa Hy Lạp cũng ngả theo Hannibal và bắt đầu cuộc chiến tranh chống lại La Mã năm 215 trước cn. Tình hình gần như tuyệt vọng đối với La Mã. Fabius không còn dũng khí đối đầu với Hannibal. Hannibal đưa quân đội vòng quanh Italy mà không còn bất cứ sự chống cự nào. Tuy nhiên, Hannibal không có đủ lực lượng và trang bị để bao vây hay tấn công ồ ạt các thành phố như Rome. Tất cả những gì ông có thể làm là đi khắp các miền nông thôn Italy và tàn phá nó.
La Mã quyết định tấn công hậu phương của Hannibal. Biết rằng Hannibal phụ thuộc vào nguồn cung cấp nhân lực và vật lực từ TBN, La Mã trao cho Publius Cornelius Scipio (237-183 trước cn), 1 thiên tài về chiến lược chức Thống đốc Tây Ban Nha, 1 hành động không hợp hiến vì vị tướng trẻ này chưa bao giờ là quan chấp chính. Scipio, sau này được gọi bằng cái tên Scipio Africanus vì chiến thắng của ông trước người Carthage trên đất Châu Phi, đã nhanh chóng chinh phục toàn bộ TBN. Đến lúc này, Hannibal bị mắc cạn trên đất Italy. Sau đó, Scipio đưa quân vào Châu Phi và buộc người Carthage phải đề nghị Rome 1 hiệp ước hòa bình. Một phần của hiệp ước này là Hannibal phải rời khỏi bán đảo Italy. Hannibal là 1 trong những danh tướng vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới. Trong suốt cuộc chiến tranh với La Mã, ông không hề thua 1 trận nào. Dù vậy ông vẫn buộc phải rút lui. Và dù thắng trong tất cả các trận đánh, Hannibal đã thua trong cuộc chiến tranh này. Khi Hannibal quay trở lại, người Carthage lấy lại tinh thần và thêm 1 lần nữa nổi dậy chống lại La Mã. Năm 202 trước cn, Hannibal và Scipio giao chiến ở At Zama phía bắc Châu Phi và tại đây Hannibal nếm chiến bại đầu tiên. Carthage bị đưa xuống thành 1 bang độc lập. La Mã lúc này kiểm soát toàn bộ miền tây Địa Trung Hải bao gồm cả khu vực Bắc Phi.
Cuộc chiến này mang đến cho La Mã những kinh nghiệm lịch sử. Họ đã phải đối mặt với những thất bại hiển nhiên trước một địch thủ hùng mạnh và cuối cùng đã chiến thắng những kẻ thù vượt trội này. Tính cách La Mã được nhìn nhận từ cuộc chiến tuyệt vọng này đã xuyên suốt phần còn lại của lịch sử đế chế. Chiến tranh Punic lần 2 đưa La Mã từ 1 quyền lực có tính khu vực trở thành 1 đế chế trên toàn thế giới. Với việc Philip V của Macedon bắt tay với Hannibal tiến hành chiến tranh chống lại Rome, La Mã chuyển hướng chiến tranh về phía đông trước tiên xâm chiếm Macedon và sau đó là các vương quốc Hi Lạp khác. Kết quả cuối cùng của chiến tranh Punic lần 2 là sự thống trị thế giới của La Mã.
3. Xêza (César): La Mã (100- 44 TCN). Người sáng lập nền quân chủ đầu tiên ở La Mã.
Sự nghiệp quân sự rất thành công của Caesar khiến ông đuợc xếp vào ngang hàng với Alexander Đại đế, Hannibal, Thành Cát Tư Hãn và Napoléon Bonaparte. Mặc dù ông cũng đã từng thất bại lớn trong nhiều trận đánh, như trận Gergovia (trong cuộc chinh phạt xứ Gaul), Trận Dyrrhachium (trong cuộc Nội chiến), thế nhưng khả năng, mưu lược tài tình của ông vẫn ngời sáng qua sự xây đắp thành lũy ở Alesia trong cuộc chiến xứ Gaul, chiến thắng đội quân đông đảo hơn rất nhiều của Pompey ở Pharsalus, và sự tận diệt đội quân của vua Pharnaces ở Trận Zela.
Caesar chiến thắng dưới bất kỳ địa hình, thời tiết nào có thể phần lớn là nhờ vào tính kỷ luật cao của binh lính ông, khả năng điều khiển tuyệt vời, và sự trung thành của binh lính dành cho ông. Kỵ binh và bộ binh của ông là tốt nhất (của La Mã thời đó), và ông sử dụng rất nhiều các thiết bị chiến tranh của La Mã như máy bắn đá, máy bắn tên và nhiều mặt khác nữa, điều mà khiến cho lực lượng của ông trở nên cực kỳ thiện chiến, kỷ luật và di chuyển rất nhanh (một vài tài liệu chép rằng lực lượng của Caesar có thể di chuyển tới hơn 40 dặm trong vòng một ngày). Lực lượng của ông ước có khoảng hơn 40.000 bộ binh và rất nhiều kỵ binh, cùng với một số đơn vị chuyên dụng khác như là các máy móc chiến tranh, phu phục vụ. Caesar kể trong bản hối ký của ông rằng một số làng của người Gaul được xây dựng trên dốc thẳng đứng và rất vững chắc, sẽ thiệt hại rất lớn nếu muốn tấn công những khu làng kiểu này, nhưng các máy móc và kỹ sư của ông có thể đào qua các lớp đá cứng và tìm ra nguồn cung cấp nước cho các làng đó, và ông ngắt nó đi. Ngôi làng thiếu nước cung cấp, đầu hàng hầu như ngay lập tức.

Thời kỳ trung đại:

4. Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn: Việt Nam (1213- 1300). Anh hùng danh nhân quân sự cổ kim của thế giới. Quốc Tuấn (1228-1300) là một danh nhân quân sự cổ kim của thế giới.
Ngay từ nhỏ, Trần Liễu đã kén những thầy giỏi dạy cho Quốc Tuấn, ký thác cho con hội đủ tài võ, mong trả mối thù sâu nặng năm nào.
Lớn lên Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh, xuất chúng, đọc rộng các sách cả văn lẫn võ. Trong đời mình Quốc Tuấn đã trải qua một lần gia biến, ba lần nạn nước. Nhưng ông lại càng tỏ ra là người hiền tài, một vị anh hùnh cứu nước. Ông luôn đặt lợi nước lên trên thù nhà, vun trồng cho khối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần, tạo cho thế nước ở đỉnh cao muôn trượng đủ sức đè bẹp quân thù. Trong lần quân Nguyên sang xâm lược lần thứ ha, thấy rõ ngành trưởng, ngành thứ xung khắc, giữa ông và Trần Quang Khải không chung sức chung lòng thì kẻ thù có lợi chỉ có thể là quân giặc. Bởi vậy, Quốc Tuấn đã chủ động giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải, tạo nên sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hùng mạnh.
Chuyện kể rằng, một lần ở biển Đông, Quốc Tuấn mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện chơi cờ và sai người nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Trần Quang Khải, vĩnh viễn xóa nỗi hiềm khích giữa hai người, đầu mối của hai chi họ Trần (Quốc Tuấn là con Trần Liễu, Quang Khải là con Trần Cảnh). Lần khác, Quốc Tuấn đem việc xích mích dò ý các con, Trần Quốc Tảng có ý kích ông nên cướp ngôi chi thứ. Ông nổi giận rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. May nhờ các con và những người tâm phúc van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng:
Từ nay cho tới khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thần này nữa.
Trong kháng chiến, ông luôn hộ giá bên vua, tay chống gậy bịt sắt. Dư luận xì xào sợ Ông giết vua,. Ông liền bỏ luôn phần bịt sắt, chỉ chống gậy để tránh hiềm nghi, làm yên lòng quân dân.
Ba lần chống giặc, các vua Trần đều giao cho ông quyền Tiết chế (Tổng tư lệnh quân đội) vì ông biết dùng người tài, thương yêu binh lính, do vậy tướng sĩ hết lòng tin yêu ông. Đạo quân cha con ấy trở thành đội quân bách chiến bách thắng.
Trần Quốc Tuấn là bậc tướng trụ cột của triều đình. Ông đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp Tông bí truyền thư dể răn dạy các tướng cầm quân đánh giặc. Khi giặc Nguyên lộ rõ ý đồ xâm lược, Trần Quốc Tuấn viết Hịch tướng sĩ, truyền lệnh cho các tướng, dạy bảo họ lẽ thắng trận, tiến lui. Hịch tướng sĩ rất hùng hồn, thống thiết, khẳng định văn trương của một bậc "đại bút".
Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng gồm đủ tài đức.
Là tướng nhân, ông thương dân thương quân, chỉ cho họ con đường sáng.
Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi.
Là tướng trí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn tới đâu.
Là tướng dũng, ông xông pha nơi nguy hiểm để đánh giặc, tạo những trận như Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời.
Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính theo ông sẽ được gì, trái lời ông thì gặp họa. Cho nên, cả 3 lần đánh giặc Nguyên, ông đều được giao trọng trách điều bát binh mã và đều lập công lớn.
Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến thăm và hỏi:
Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao? ông đã trăng trối những lời tâm huyết, sâu sắc, đúng cho mọi thời đại:
- Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước.
Mùa thu tháng Tám, ngày 20 năm Canh Tý (1300), "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời ông dặn, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng chôn trong vườn An Lạc, gần cánh rường An Sinh, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ. Vua gia phong cho ông tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, phong ấp của ông lúc sinh thời.
5 . Thành Cát Tư Hãn:
Thời Trung cổ, nước Mông Cổ, xét về dân số, chỉ là một nước nhỏ, nhưng họ đã làm rung chuyển thế giới. Thời đó vì họ có những thủ lãnh xuất chúng với một đạo kị binh thiện chiến giỏi cỡi ngựa, giỏi cung tên và vô cùng tàn ác, " nơi nào ngựa Mông Cổ đi qua, cây cỏ cũng hết sống ".
Bão táp bắt đầu nổi lên cùng với sự xuất hiện của Thiết Mộc Chân (Temujin 1162-1227), sau này lấy danh hiệu là Thành Cát Tư Hãn, tức Genghis Khan. Vừa nắm được quyền hành, Thành Cát Tư Hãn đã khởi sự chiến tranh, theo đuổi mộng bá chủ:
- Năm 1205-1209: chinh phục nước Tây Hạ (Hsi-Hsia), tức vùng đất Tây Thục sau này.
- Năm 1211-1215: chinh phục nước Kim (Chin), vượt Vạn Lý Trường Thành, chiếm thủ đô Bắc Kinh của người Kim. Sau này, nước Kim sát nhập vào nước Tàu.
- Năm 1218-1219: chinh phục đế quốc Ba Tư (thời đó là Khwarezmian empire của Mohammed Shah), gồm đất Ba Tư, Khorassan, Transoxonia, SamarkandAfghanistan.
- Năm 1222: Tuân lệnh của Thành Cát Tư Hãn quân Mông tiến sang Âu châu, chiếm toàn vùng Caucasus, vượt sông Don, tràn vào Crimea rồi Ukraine, hạ trại bên bờ sông Dnieper. Ông hoàng thành Kiev đưa 80 ngàn quân đánh quân Mông, nhưng đã bị Subotai và danh tướng Chepe nghiền nát. Năm 1224 danh tướng Chepe bị bệnh chết, Subotai triệt thoái trên con đường dài 4000 dặm để bắt tay với đoàn quân trung ương.

- Năm 1226: Thành Cát Tư Hãn chọn con trai là Ogedei làm người nối nghiệp, rồi chuẩn bị đưa 180 ngàn quân đi trừng phạt quân Hạ và Kim là hai nước đã bị quân Mông Cổ đánh bại, nay liên kết với nhau chống lại quân Mông Cổ.

- Năm 1227: Thành Cát Tư Hãn chết. Ogedei đại hãn và Kuyuk đại hãn Ogedei và con là Kuyuk tiếp tục mộng bá chủ của cha.
- Năm 1231: Xâm lăng Cao Ly (Korea).
- Năm 1235-1239: Con Ogedei Khan là Godan đánh chiếm Tây Tạng.
- Năm 1237-1238: Subotai xua 150 ngàn quân trở lại Âu châu, gieo tàn phá, chết chóc khắp vùng phía Bắc nước Nga .
- Năm 1240: Chiếm Kiev, rồi Lithuania và Ba lan.
- Tháng 4, 1240: Subotai hạ thành Pest, tiêu diệt đạo quân của vua Bela IV nước Hung.
- Tháng 9, 1240: Ðánh tan liên minh quân Ðức, Ba lan, và dòng tu Hiệp sĩ Ðức (Teutonic Knights). Thủ lãnh của liên minh là hoàng tử xứ Silesia bị giết cùng với hầu hết hiệp sĩ của ông.
- Cuối năm 1241, quân Mông tiến vào nước Ý, vượt qua thành Venice và Treviso, đồng thời ngược lên sông Danube, áp sát thành Vienne Giữa lúc ấy, Ogedei chết. Theo luật, các anh em của vị đại hãn quá cố phải trở về Mông Cổ để bầu chọn vị đại hãn mớị. Nhờ thế mà Âu châu thoát được họa diệt vong. Vậy mà trên đường triệt thoái, quân Mông Cổ còn đủ thì giờ để làm cỏ hai nước BulgariaSerbia.
- Năm 1246, con của Ogatai là Kuyuk được chọn làm đại hãn. Dưới thời ông, Ðức giáo chủ Innocent IV gửi đặc phái viên là thầy John di Piano Carpini, dòng Phanxicô, tới các thủ lãnh Mông Cổ để tìm hiểu ý đồ của họ ở Âu châu. Mới nắm quyền được ít lâu, còn đang lưỡng lự nên trở lại chinh phục Âu châu trước hay tiến xuống phía Nam để chiếm trọn nước Trung hoa trước, thì Kuyukchết vào năm 1248. Mangu, tức Mông Kha đại hãn và em là Kublai, tức Hôt Tât Liệt đại hãn .
- Năm 1251: Một người cháu nội khác của Thành Cát Tư Hãn là Mangu (còn viết là Mengke, ta gọi là Mông Kha) lên ngôi đại hãn. Mông Kha quyết định thôn tính Á châu, đặc biệt là nước Trung Hoa trước. Nước Trung Hoa thời đó chia làm Bắc Tống và Nam Tống. Mông Kha nắm quyền thống soái nhưng lại giao trọng trách cho người em kiệt xuất đó là Hốt Tất Liệt (Kublai).
- Mông Kha sai một người em khác là Hulagu trở lại thôn tính Ba Tư bao trùm khắp miền Ðông Nam Á châụ Ðồng thời khuyến khích người em họ là Batu khống chế khắp vùng Ðông Âu, toả lên Ba lan, Lithuania và Esthonia, rồi xuống Serbia và Bulgaria một lần nữa.
- Năm 1252-1253: Hốt Tất Liệt chinh phục Vân Nam, từ đó phái một đạo quân mở cuộc xâm lăng bờ cõi nước ta lần thứ nhất vào năm 1257.

- Năm 1259: Mông Kha chết, Hốt Tất Liệt (Kublai) lên ngôi đại hãn vào năm 1260. Lúc ấy đế quốc Mông Cổ trải rộng từ toàn vùng Hoa Bắc sang vùng Tiểu Á, từ vùng thủ đô Moscow của nước Nga xuống biển Ðen, xuống Baghdad (Iraq) và Iran ngày nay.
- Nhận được tin Mông Kha chết, người em là Mangu đang chiếm đóng vùng Mesopotamia và Syria phải về Mông Cổ để bầu đại hãn mới. Trong khi ông vắng mặt thì, năm 1260, đạo quân của ông đã bị tướng Baibars (thuộc triều đại Mameluk cai trị Ai Cập và Syria) đánh bại trong trận Aint Jalut, gần thành Nazareth. Chiến công của Baibars có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chứng minh đoàn quân bách chiến bách thắng Mông cổ suốt 70 năm không phải là không thể đánh bại,dấu hiệu suy thoái đã biểu hiện và toàn Âu châu sẽ thoát nạn Mông Cổ.
- Năm 1268-1279: Hốt Tất Liệt không nuôi ý chí chinh phục thế giới như các đại hãn tiền nhiệm, ông dốc hết khả năng để chinh phục toàn cõi Trung Hoa trong một chiến dịch dài ngót mười năm. Năm 1263, ông rời kinh đô từ Karakorum về Bắc Kinh. Trong trận hải chiến cuối cùng vào năm 1279 tại vịnh Quảng Ðông, Hốt Tất Liệt đã đánh bại nhà Nam Tống. Thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu phải cõng vua nhảy xuống biển để cùng tử tiết, từ đó Hốt Tất Liệt cai trị toàn cõi Trung Hoa, xưng là hoàng đế, lập ra nhà Nguyên (Yuan Dynasty). Từ đây ta gọi họ là quân Nguyên Mông.
-Dòm ngó Nhật Bản:
Hai lần vào các năm 1274 và 1281 quân. Nguyên Mông sang đánh nước Nhật. Nhưng " nhờ Trời ", cả hai lần chiến thuyền của quân Nguyên Mông đều bị bão táp đánh chìm vô số, phải quay về.
- Năm 1292-1293: Với tay xuống mãi đảo Java (Nam Dương), nhưng không ở lại được.

- Ðặc biệt nhất là ba lần quân Nguyên Mông xâm phạm bờ cõi nước ta vào các năm 1257,1284 và 1287. Cả ba lần xâm lăng đều chuốc lấy thảm bại.

Thời kỳ Cận đại:

6. Napoléon Bonaparte: Hoàng đế Pháp (1804- 1815). Sinh ngày 15/8/1769, mất ngày 5/5/1821.                                                                    
Ông tham gia cách mạng tư sản Pháp 1789 từ một đại uý pháo binh và thân chinh đánh bại các đế quốc Anh, Áo-Phổ, Tây Ban Nha,Ý,Nga,Ai Cập... trên toàn châu Âu để lập nên đế quốc Pháp.Sau thất bại trong cuộc chinh phạt nước Nga mùa đông năm 1812, ông tuy vẫn có những chiến thắng vang dội trước liên quân Anh-Áo-Phổ-Nga-Thuỵ Điển đông hơn gấp bội nhưng mất dần quyền lực và phải thoái vị năm 1814.Một năm sau, tháng 3-1815 từ đảo Elba trên Địa Trung Hải nơi ông bị đày ra sau khi thoái vị, ông trở lại Lyon nắm lại quyền lực.3 tháng sau, Napolen thất bại trong trận Waterloo trước liên quân Anh-Hà Lan-Phổ và buộc phải thoái vị.Ông bị đày ra đảo Saint-Helena ở Đại Tây Dương và mất tại đây năm 1821.

Thời kỳ Hiện đại:

7 . Thống chế Erwin Rommel ( 1891 - 1944 )
Một vị chỉ huy quân sự được thế giới đánh giá thuộc loại xuất sắc nhất trong hàng ngũ các tướng lĩnh trong quân đội đức Quốc xã cung với Eric von Manstein và Heinz Guderian.Ông được mệnh danh là Con cáo sa mạc trong thời gian chỉ đạo quân đoàn châu Phi của Đức thời gian 1941-1943.Với số quân luôn luôn ít hơn và một lượng xe tăng đời III không quá hiện đại lúc bấy giờ của Đức, Rommel đã đập tan và đẩy lùi nhiều sư đoàn của khối liên minh Anh,Mỹ, Úc, Ấn Độ, New Zealand, Nam Phi, Rhodesia, Pháp và Ba Lan.Quân số luôn bị cắt giảm để bổ sung cho mặt trận Xô-Đức, cùng ngồn tiếp tế qua Địa Trung Hải ngày càng thưa thớt dần bởi không quân Đồng Minh, nhưng Rommel với số quân Đức ít ỏi còn lại vẫn giáng một đòn nặng nề vào quân đoàn số 2 của Mỹ tại Tunisia trước khi ông và số quân Đức còn lại buộc phải rút khỏi Bắc Phi trong bất lực khi không còn nguồn tiếp tế để tiếp tục chiến đấu.
Trở về Đức và được Hitler chỉ định lập tuyến phòng thủ tại bờ biển của Pháp nhàm ngăn chặn cuộc đổ bộ của Đồng Minh sắp xảy ra.Nhưng sai lầm của Hitler và Rundstedt về nhận định tình hình qua tin tức tình báo đã làm cho kế hoạch phòng thủ của Rommel không thành.Các đơn vị xe tăng thay vì được chia nhỏ và rải rác khắp các eo biển Pháp để chi viện, bổ sung cho nhau khi quân Đông Minh đổ bộ nhằm chặn đứng ngay lập tức đến mức có thể khi quân Đồng Minh đổ bộ và tránh thiệt hại tối đa khi bị không kích bởi không quân Đồng Minh thì lại được tụm lại theo ý của Hitler và Rundstedt ở vùng giữa eo biển Pas de Calais và Paris.Do bị nghi ngờ tham gia ám sát Hitler, ông bị Hitler bức tử bằng thuốc độc tháng 10-1944.
8 . Đại tướng Heinz Guderian(17 tháng 6 năm 1888 – 14 tháng 5 năm 1954)
Ông là một lý thuyết gia về quân sự và vị tướng nổi tiếng của Đức Quốc Xã trong Thế chiến thứ hai. Các lực lượng xe tăng Panzer của Đức được xây dựng và phát triển dựa theo tác phẩm nổi tiếng của ông mang tên Achtung! Panzer! (tiếng Đức). Ông là chỉ huy trưởng của Quân đoàn Panzer, Lực lượng Panzer, tướng thanh tra các lực lượng thiết giáp và chỉ huy trưởng của Bộ chỉ huy tối cao (tiếng Đức: Oberkommando der Heeres, OKH). Ông được thăng hàm Đại tướng vào tháng 6 năm 1940. Mặc dầu không bao giờ trở thành một vị Thống chế, Guderian được xem là một trong các vị tướng tài ba của Thế chiến thứ hai.
Guderian được giới nghiên cứu lịch sử thế giới đánh giá không chỉ là một vị tướng xe tăng đại tài mà còn là một nhà chiến lược quân sự tài ba có tầm nhìn của thời đại. Ông chính là tác giả của cuốn sách Achtung !Panzer về học thuyết quân sự chiến tranh chớp nhoáng (Blitzkrieg) với chủ trương dùng lực lượng xe tăng làm chủ đạo tiên phong để đột kích, đánh thọc sâu chia cắt làm rối loạn , hoang mang để đạp tan đội hình của đối phương sau khi bị oanh kích bởi không quân và pháo binh.Những lý thuyết như vậy ngày nay không còn gì là mới mẻ nhưng trong thời kờ những năm 30 của thế kỉ trước, việc đề ra sách lược này cùng với việc ông hối thúc Hitler và nền công nghiệp quốc phòng Đức nâng cấp và sản xuất hàng loạt những xe tăng đời III vào thời điểm thời bấy giờ là một bước tiến vượt bậc về quan điểm chiến tranh.
Guderian và von Manstein được ghi nhận là những vị chỉ huy xe tăng tài năng nhất của quân đội Đức quốc xã.Tuy vậy khi cuộc xâm lược Liên Xô nổ ra 6-1941, những quan điểm và chiến lược của hai ông trong những thời điểm quan trọng lại không được Hitler coi trọng, qua đó làm mất cơ hội chiếm được Moscow nhanh chóng và làm mất thế chủ động của quân Đức sau trận Kursk 1943.
9. Georgi Konstantinovich Zhukov (1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974)
Trong lịch sử chiến tranh thế giới, hiếm có vị tướng nào chưa bao giờ nếm mùi thất bại, chỉ biết có chiến thắng, hết trận này đến trận khác. Trong rất nhiều tướng lĩnh nổi danh trong Thế chiến thứ hai, G.K. Zhukov được xếp đầu bảng về số lượng trận thắng nhiều và quy mô lớn, chiếm bảng vàng về tài năng chỉ đạo chiến dịch,chiến lược. Những chiến tích sáng chói của ông trở thành tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hoá nhân loại. Nó không những có ảnh hưởng lớn về lý luận quân sự của Liên Xô mà cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của lý luận quân sự thế giới.
Georgi Konstantinovich Zhukov (tiếng Nga: Георгий Константинович Жуков) sinh ngày 1-12-1896 trong một gia đình nghèo tại làng Strenkovka, tỉnh Kluga, con ông Konstantin Zhukov và bà Uxtina Zhukova. Tuổi nhỏ sống rất cực khổ, nhưng học rất giỏi. Năm 12 tuổi, lên Moscow làm thợ học việc trong một cửa hàng đồ da. Năm 1915, ông nhập ngũ, phục vụ trong một đơn vị kỵ binh Sa hoàng, tham gia Thế chiến thứ nhất, và 2 lần được tặng Huân chương Thánh George vì lòng dũng cảm.
Sau Cách mạng tháng Mười Nga, Zhukov gia nhập Hồng quân và trở thành một sĩ quan kỵ binh ưu tú. Ông chỉ huy đơn vị nghiêm minh, quản lý đúng phương pháp, đơn vị ông phụ trách bao giờ cũng là đơn vị tiên tiến, lập nhiều công tích xuất sắc trong thời kỳ nội chiến Nga. Năm 27 tuổi, ông giữ chức trung đoàn trưởng; đến năm 42 tuổi, đã là phó Tư lệnh đại quân khu Bélorusia.
Tháng 5-1939, quân Nhật khiêu khích vũ trang tại vùng Khangin Khon (Mông Cổ). Zhukov được cử giữ chức vụ Tư lệnh chiến trường. Trong chiến dịch này, Zhukov đã sử dụng lực lượng xe tăng, cơ giới, máy bay và hỏa pháo mạnh để phản kích quân Nhật một cách kiên quyết; mạnh dạn đánh chia cắt và bao vây tập đoàn trang bị nặng của Nhật, gây cho tổn thất nặng nề cho quân Nhật. Qua đó, lần đầu tiên Zhukov thể hiện được tài năng về mặt chỉ huy và hiệp đồng tác chiến, gây sự chú ý của vị thống soái Stalin. Năm 1940, ông được phong hàm Đại tướng, giữ chức Tư lệnh đại quân khu Kiev. Đến đầu năm 1941, ông giữ chức Tổng tham mưu trưởng Hồng quân Liên Xô.
Có thể nói Zhukov đã hội đủ mọi tố chất để trở thành một vị tướng tài ba: Giỏi quan sát và phán đoán địch tình; dự kiến tình huống phát triển một cách chính xác; biết xử trí linh hoạt, ứng phó hữu hiệu với sự thay đổi của tình hình; điều chỉnh bố trí binh lực một cách hợp lý, luôn giáng cho địch những đòn đích đáng. Ông bao giờ cũng chọn đúng điểm đột phá khẩu, biết sử dụng binh đoàn xe tăng, chia cắt và đánh vu hồi, nhanh chóng đập tan tập đoàn địch. Zhukov còn là một nhà chiến thuật tài năng, hiểu rõ tầm quan trọng của yếu tố địa hình và khí hậu. Trước khi nổ ra chiến dịch, bao giờ ông cũng tiến hành đo đạc địa hình, tính toán cân nhắc cẩn thận, so sánh lực lượng giữa hai bên, dựa vào sức mạnh của các quân binh chủng, nhằm bảo đảm về các mặt hàng không, pháo, công trình và thông tin. Ông không bao giờ chấp nhận một cuộc giao tranh không nắm chắc phần thắng.
Với nhận xét tinh tường, Zhukov đã nhận định rằng chiến tranh Xô-Đức là rất không thể tránh khỏi, nên về mặt xây dựng quân đội, ông đã đề xuất thành lập các đơn vị xe bọc thép độc lập để đáp ứng nhu cầu của chiến tranh. Tuy nhiên ý kiến đúng đắn của ông đã không được giới lãnh đạo Liên Xô coi trọng. Điều này chỉ được chứng thực vào tháng 6-1941, khi chiến tranh Xô-Đức nổ ra, thực tế chiến trường đã xác minh hầu hết các luận điểm của ông.
Nhận ra được sai lầm của mình, Stalin thận trọng sử dụng Zhukov vào cương vị Phó Tổng tư lệnh Tối cao, sau đó tin cậy giao trách nhiệm cho Zhukov trên những mặt trận nóng bỏng nhất. Đến lúc này, tài năng của Zhukov được bộc lộ qua hàng loạt chiến dịch lớn. Bất cứ chiến trường nào đang gặp nguy hiểm, khi Zhukov đến chỉ huy, tình thế lập tức thay đổi. Báo chí phương Tây gọi ông với biệt danh “Fireman” – “lính cứu hỏa thiện nghệ”, nhân dân Liên Xô gọi ông với cái tên “vị Nguyên soái của Chiến thắng” (Zhukov được phong hàm Nguyên soái Liên Xô năm 1943, và là vị Nguyên soái Liên Xô đầu tiên được phong trong Thế chiến thứ hai). Hàng loạt chiến dịch lớn chấn động địa cầu trên mặt trận phía Đông như Léningrad, Moscow, Stalingrad, Kursk, Berlin... đều có dấu ấn của Zhukov. Hàng loạt danh tướng nước Đức như Von Leeb, Von Bock, Von Paulus, Von Kluge, Von Manstein, Von Keitel ... phải chấp nhận thất bại trước Zhukov. Có thể nói, Zhukov là khắc tinh của quân đội Đức, một đội quân hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ. Chính Zhukov là thay mặt Hồng quân Liên Xô tiếp nhận sự đầu hàng của nước Đức.
Sau chiến tranh, uy tín của Zhukov được cả thế giới khẳng định. Chính Zhukov là người đại điện cho Stalin duyệt binh mừng chiến thắng. Tuy nhiên, ông là một vị tướng của chiến trường, không phải là một nhà chính trị. Sau khi Stalin mất, ông được bổ nhiệm là Thứ trưởng Bộ quốc phòng, phụ trách nghiên cứu tác dụng của vũ khí hạt nhân trong chiến tranh hiện đại. Từ 1955-1957, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Sau khi bị thất sủng, ông tập trung viết quyển hồi ký “Nhớ lại và suy nghĩ” (nguyên tác tiếng Nga: "Воспоминания и размышления", tiếng Anh: "Memories and thoughts") nổi tiếng. Quyển hồi ký này đã được xuất bản vào năm 1969. Ông qua đời năm 1974, thọ 78 tuổi.
Các danh hiệu của G.K. Zhukov:
- 4 lần phong tặng Anh hùng Liên Xô (1939, 1944, 1945, 1956),
- 2 Huân chương Chiến thắng, (1944, 1945)
- 2 Huân chương Suvorov hạng I
- Huân chương Vẻ vang của Hoa Kỳ
- Huân chương Barna hạng I của Anh quốc.
và nhiều huân huy chương, danh hiệu khác...
10 . Võ Nguyên Giáp (sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911) là đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, người đã chỉ huy quân đội thắng Pháp trong trận Điện Biên Phủ, Giáo sư Sử học, Cử nhân Luật học.
“Với 30 năm làm tổng tư lệnh và gần 50 năm tham gia chính sự ở cấp cao nhất, ông đã tỏ ra là người có phẩm chất phi thường trong mọi lĩnh vực của chiến tranh; khó có một vị tướng soái nào có thể so sánh với ông trong việc kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính qui ở trình độ cao... Cuộc đời của ông Giáp gắn liền với chiến đấu và chiến thắng, đã làm ông trở thành một trong những thống soái lớn của tất cả các thời đại”. (Ký giả người Anh Peter Macdonald trong cuốn Giap, les deux guerres d’Indochine)

“Ông không chỉ trở thành huyền thoại mà có lẽ còn trở thành một thiên tài quân sự lớn nhất thế kỷ 20 và một trong những thiên tài lớn nhất của tất các thời đại”. (Nhà sử học Mỹ Cecil Curry trong cuốn Victory at any cost).
Là một người có tài tổ chức và kiên nhẫn, Võ Nguyên Giáp đã từng bước xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam từ 34 người vào tháng 12 năm 1944 thành một đội quân với hơn một triệu người năm 1975. Là một nhà chiến lược - chiến thuật bậc thầy, ông đã lãnh đạo quân đội đó giành thắng lợi trong cả hai cuộc chiến tranh. Tên tuổi của Võ Nguyên Giáp gắn liền với một chiến thắng có ý nghĩa quốc tế của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong trận Điện Biên Phủ - lần đầu tiên quân đội của một nước thuộc địa châu Á đánh bại trên chiến trường quân đội của một cường quốc châu Âu. Với hơn 50 năm tham gia hoạt động chính trị ở cấp cao nhất, trong đó có 30 năm là Tổng tư lệnh quân đội, ông có uy tín lớn trong Đảng Cộng sản Việt Nam, trong quân đội và trong nhân dân, được coi là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và là Người anh cả của Quân đội Nhân dân.
Ông được cả thế giới biết đến như một trong những danh tướng của thế kỷ 20 - người đã đánh bại nhiều viên tướng quân đội Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và lần lượt đọ sức với 7 danh tướng của quân đội Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam cho tới khi Hoa Kỳ rút quân ra khỏi bán đảo Đông Dương sau Hiệp định Paris (1973).
Ngày 25-8-2011, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã mừng sinh nhật thượng thọ lần thứ 100. Ông là chính khách Việt Nam sống lâu nhất tính cho đến thời điểm này (cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng mất năm 2000, thọ 94 tuổi).
Kỷ niệm 60 năm ngày phát hành số đầu tiên, Thời báo châu Á (Times Asia) đã ra số đặc biệt giới thiệu các "Anh hùng châu Á" , tôn vinh các nhân vật nổi tiếng làm thay đổi cục diện châu lục trong những thập kỷ gần đây. Những nhân vật được giới thiệu gồm Mahatma Gandhi, Jawaharlal Nehru, Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Việt Nam).

                                                                                                      [PUT sưu tầm]
                                                                                                    Ngày 07/10/2012

Chiến lược đáp trả của Hoa Kỳ trước sức mạnh Hải quân Trung Quốc

Vừa qua, nhóm Đối tác vì nền an ninh Hoa Kỳ (PSA), một nhóm phi lợi nhuận do các cựu nghị sĩ Mỹ thành lập, đã có bài viết về sự lớn mạnh của hải quân Trung Quốc và đưa ra đề xuất về chiến lược mà Hoa Kỳ cần áp dụng để đối phó.
Hai thập kỷ qua đã chứng kiến sự chuyển đổi của cán cân quyền lực thế giới và Tổng thống Mỹ Obama đã vừa tìm cách tái cân bằng các lực lượng và sự tập trung của Mỹ vào khu vực Vành đai Thái Bình Dương.
Sự tăng trưởng nhanh chóng và to lớn về kinh tế và vị thế của Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới đã giúp nước này có thể phát triển những năng lực quân sự mới và tiên tiến. Năng lực quân sự mới của Trung Quốc sẽ giúp nước này có thêm nhiều sự lựa chọn để giải quyết các cuộc tranh chấp theo hướng có lợi cho mình, khiến mối quan hệ giữa nước này và Hoa Kỳ trở nên phức tạp hơn và có tính ganh đua hơn bao giờ hết.
Mục tiêu ban đầu là Đài Loan?
Trước đây Trung Quốc chỉ tập trung các nguồn lực của Quân đội cho các lợi ích trước mắt về lãnh thổ, đáng chú ý nhất là Đài Loan. Tuy nhiên, vào thời điểm hiện nay, nước này mở rộng năng lực hải quân để phục vụ những lợi ích ở tầm rộng lớn hơn và vươn xa ngoài lãnh thổ của mình.
Trong khi một số nội dung trong phát triển năng lực hải quân của Trung Quốc là có lợi cho Hoa Kỳ như các hoạt động gìn giữ hòa bình quốc tế, chống cướp biển và hoạt động cứu trợ nhân đạo và thảm họa thì một số mục đầu tư khác của Trung Quốc lại đối đầu với những lợi ích của Mỹ trong khu vực, khiến Hoa Kỳ và các đồng minh khó tiếp cận các vùng biển trong khu vực hơn.
Đến nay vẫn chưa rõ trong tương lai Trung Quốc sẽ sử dụng năng lực ngày càng lớn mạnh của mình như thế nào- liệu hải quân Trung Quốc lớn mạnh là vì vấn đề Đài Loan, Biển Đông hay vì các vấn đề cấm phổ biến vũ khí hạt nhân.
Trong vài thập kỷ qua, vấn đề lớn nhất trong quan hệ Mỹ - Trung là Đài Loan, hòn đảo mà Trung Quốc tuyên bố thuộc về chủ quyền lãnh thổ của mình.
Tuy nhiên, kể từ năm 2008, đã có 2 bước tiến quan trọng trong vấn đề này: cuộc bầu cử của Tổng thống Mã Anh Cửu, người ngày càng thân mật với Trung Quốc hơn; và bài phát biểu của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào kêu gọi nhìn nhận một cách linh hoạt về vị thế quốc tế của Đài Loan. Kết quả là, Đài Loan được gia nhập vào Tổ chức sức khỏe thế giới với tư cách quan sát viên theo sự chấp thuận của Trung Quốc.
Tuy nhiên, do Trung Quốc mở rộng năng lực hải quân nên nước này ngày càng dễ dàng sử dụng các hệ thống chống tiếp cận mới và tiên tiến (Area denial) của mình, hoặc là để chống lại Đài Loan hoặc là để phòng ngừa Mỹ trợ giúp Đài Loan trong trường hợp xảy ra xung đột quân sự. Tình hình đó khiến mối quan hệ Đài Loan, Trung Quốc và Hoa Kỳ trở nên phức tạp hơn.
Thêm vào đó, Trung Quốc đã đặt hơn 1.000 tên lửa nhắm đến Đài Loan, thể hiện quyết tâm kiểm soát chính trị với hòn đảo này và đây có thể trở thành điểm nóng xung đột giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong tương lai.
Tham vọng ngày càng lớn của Trung Quốc?
Chỉ trong một thập kỷ vừa qua, ngân sách quốc phòng chính thức của Trung Quốc đã tăng hơn 339%. Trong khi đó ngân sách quốc phòng của Mỹ chỉ tăng 70%.
Sự xuất hiện của các tên lửa đạn đạo chống tàu và tàu ngầm mới, việc các tàu cũ được hiện đại hóa cùng sự cải thiện lớn về chất lượng nhân sự, các cuộc diễn tập và vận tải quân sự cho thấy Trung Quốc đang theo đuổi những lợi ích chủ quyền lớn hơn.
Ví dụ như, nếu xảy ra một cuộc xung đột với Đài Loan thì tàu sân bay có thể có tác dụng, nhưng do Đài Loan ở gần đại lục nên Trung Quốc chỉ cần điều máy bay trực tiếp từ đất liền. Do đó, tàu sân bay có giá trị hơn nếu thực hiện các dự án giúp mở rộng quyền lực Trung Quốc ra xa hơn Đài Loan.
Trung Quốc cũng đã mua các tàu khu trục loại Sovremenny và triển khai các tàu khu trục cũng như tàu chiến kiểu mới. Không chỉ có vậy, Trung Quốc còn tập trung vào nâng cao năng lực tự chế tạo. Tàu chiến của Trung Quốc có các hệ thống tương tự với các hệ thống Aegis đời đầu và các tàu khu trục loại Luyang-II có tên lửa dẫn đường có thể phô diễn sức mạnh khủng khiếp của mình trước các nước láng giềng.
Thêm vào đó, Bộ quốc phòng Mỹ tin rằng Trung Quốc đã có một thiết kế tên lửa đạn đạo chống hạm khá tốt có thể phá hỏng tàu sân bay của Mỹ và nước này cũng đang chế tạo các phương tiện không người lái dưới nước.
Rõ ràng là chỉ cần nhìn lướt qua cũng đủ thấy các chương trình hiện đại hóa và nâng cao năng lực quân sự, đặc biệt là hải quân, của Trung Quốc trở thành mối lo ngại của Hoa Kỳ và các nước láng giềng.
Trên thực tế, cuộc đối đầu vừa qua giữa Trung Quốc và Philippines là ví dụ mới nhất cho thấy sự quyết liệt ngày càng tăng của Trung Quốc về các tuyên bố chủ quyền trên biển. Trong hội nghị thượng định ASEAN vừa qua, Trung Quốc cũng tìm cách để vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông không được đưa ra bàn bạc chính thức.
Việc Trung Quốc thành lập thành phố trên Biển Đông, điều 3 tàu đến vùng biển tranh chấp trên biển Hoa Đông bất chấp sự giận dữ của Nhật Bản và hơn 20 vụ việc nghiêm trọng khác ở Biển Đông trong 3 năm qua đã cho dư luận nhận ra những tham vọng của Trung Quốc cũng như nguy cơ xảy ra xung đột trong khu vực.
Hoa Kỳ cần có chiến lược đáp trả thế nào?
Với tình hình năng lực quân sự của Trung Quốc vươn lên tầm cao mới và những nỗ lực vừa qua của nước này nhằm củng cố các tuyên bố chủ quyền của mình, an ninh hàng hải sẽ khó có thể được đảm bảo nếu Hoa Kỳ không có một chiến lược dài hạn và mạch lạc
Bất kỳ chính sách dài hạn nào về chiến lược hải quân của Hoa Kỳ nhắm đến Trung Quốc đều nên tập trung vào 4 yếu tố then chốt: dùng sức mạnh để giữ hòa bình, đảm bảo và mở rộng quan hệ đồng minh trong khu vực, củng cố cấu trúc của khu vực và tăng cường quan hệ Mỹ - Trung.
Xét về yếu tố “dùng sức mạnh để gìn giữ hòa bình”, điều quan trọng là chính quyền Obama và chính quyền tương lai phải tiếp tục áp dụng các biện pháp mạnh mẽ để bảo vệ và cùng cố năng lực của hải quân Hoa Kỳ, ngay cả trong thời kì thắt lưng buộc bụng.
Các kế hoạch phát triển tàu chiến phải tập trung vào chế tạo những con tàu có thể thực thi chiến lược Hải - Không chiến.
Thứ nhất, chiến lược Hải - Không chiến là ý niệm tập trung vào “tấn công có chiều sâu, theo mạng lưới và tích hợp để chặn đứt, phá hủy và đánh bại mối đe dọa chống tiếp cận/phong tỏa AD/A2”. Điều cần thiết thực hiện ý niệm này là các lực lượng như không quân và các công cụ khác như chiến tranh mạng cần phải được coi trọng trong thời kỳ nguồn lực hạn chế như hiện nay.
Thứ hai, các nhà làm chính sách cũng cần phải cam kết duy trì qui mô hiện nay của hạm đội hải quân Hoa Kỳ đồng thời củng cố thêm năng lực của hạm đội. Để thực hiện điều đó, cần phải tiếp tục triển khai 11 tàu sân bay, hỗ trợ cho việc xây dựng và chế tạo tàu ngầm tấn công, các tên lửa hành trình mới và đa năng hơn có thể phóng từ nhiều loại bệ khác nhau và chế tạo các tàu khu trục có trang bị hệ thống ra đa Aegis.
Chiến lược "dùng sức mạnh gìn giữ hòa bình" cũng có thể đòi hỏi phải hành động vượt ra ngoài khía cạnh hải quân thông thường và thực hiện bằng cách phân bổ các lực lượng ở Tây Thái Bình Dương ở qui mô rộng hơn và linh hoạt hơn. Các ví dụ cụ thể của chiến lược này có thể thấy ở thỏa thuận vừa qua với Australia về việc triển khai 2.500 lính thủy đánh bộ Hoa Kỳ ở gần Darwin, đồn trú luân phiên ở Singapore và tăng cường hoạt động huấn luyện và hợp tác quân sự với Philippines.
Một chính sách đúng đắn để đối phó với sự vươn lên của hải quân Quân đội giải phóng nhân dân (Trung Quốc) không thể chỉ dựa vào chạy đua vũ trang.
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương là khu vực mà Mỹ có tới 5 đồng minh quân sự gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan và Australia. Điều đó giúp Mỹ có sẵn nền tảng để củng cố năng lực của mình. Các quốc gia này đều ngày càng lo sợ sự hiếu chiến ngày càng tăng của Trung Quốc và đều hoan nghênh chiến lược lấy châu Á làm trọng tâm của Mỹ.
Thêm vào đó, trong những năm gần đây Hoa Kỳ đã thiết lập quan hệ đối tác về ngoại giao và chiến lược với một số nước trong khu vực gồm Việt Nam, Indonesia, Singapore và Ấn Độ. Các hoạt động hợp tác như hỗ trợ an ninh, tập trận chung, trao đổi và đào tạo nhân sự cần phải được tăng cường.
Hoa Kỳ cũng có thể giúp cung cấp các hệ thống vũ khí quốc phòng, như hệ thống ra đa tiên tiến, các tên lửa chống máy bay và chống tàu hiện đại và các hệ thống ra lệnh – chỉ huy giúp các nước nhỏ có thể thực hiện chiến lược ngăn chặn tiếp cận/phong tỏa hiệu quả hơn để đối phó với Trung Quốc.
Hoa Kỳ cũng cần phải thể hiện vai trò tích cực hơn, và nếu cần thiết phải lớn hơn nữa, trong việc thúc đẩy sự lớn mạnh của các diễn đàn đa phương trong phu vực như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS) cũng như xây dựng các mối quan hệ kinh tế song phương và đa phương. Khi đó, Hoa Kỳ sẽ giúp xây dựng một cấu trúc cho khu vực này, theo đó mỗi quốc gia kể cả Trung Quốc, sẽ được khuyến khích làm theo các luật lệ chứ không tìm cách giải quyết bất kỳ vấn đề gì bằng biện pháp quân sự.
Điều quan trọng là các vấn đề hiện nay từ an ninh hàng hải, cấm phổ biến vũ khí cho tới tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực phải được giải quyết ở cấp đa phương.
Các nhà làm chính sách và ngoại giao Hoa Kỳ cũng phải gắn bó trực tiếp hơn với Trung Quốc và đảm bảo với Bắc Kinh rằng lợi ích của Mỹ trong khu vực ngày càng gia tăng không nên được Trung Quốc nhìn nhận với thái độ thù địch.
Xét đến cùng, Hoa Kỳ và khu vực châu Á Thái Bình Dương sẽ cần phải tìm ra một vị trí lớn trong cấu trúc khu vực dành cho Trung Quốc.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ không thể dựa vào lòng nhân từ của Trung Quốc để mở một con đường hòa bình đến an ninh và thịnh vượng. Các nhà làm chính sách Mỹ phải tiếp tục chiến lược trọng tâm của mình, củng cố năng lực của các đồng minh, tăng cường hỗ trợ Hải quân cùng các cơ sở hậu cần để Hoa Kỳ có thể hành động quân sự trong trường hợp cần thiết.
                                                                                       LÊ DUNG
                                                                                (Nguồn infonet.vn)

Friday, October 5, 2012

10 câu nói bất hủ của Steve Jobs

Ngày này (5-10) cách đây tròn một năm, làng công nghệ đã sững sờ đón nhận tin Steve Jobs, "cha đẻ" của Apple, đã qua đời ở tuổi 56.
 
Nhiều người tỏ ra tâm đắc với câu nói "thời gian là hữu hạn, vì thế đừng phí thời gian vào việc sống cuộc đời của người khác" trong bài phát biểu của huyền thoại Steve Jobs tại trường Đại học Stanford năm 2005.

Nhân một năm ngày mất của Steve Jobs, kênh truyền hình CNN bình chọn và đưa ra 10 câu nói nổi tiếng lúc sinh thời của huyền thoại công nghệ này.
 
1. “Đối với tôi mà nói, máy tính là công cụ có ý nghĩa nhất mà nhân loại từng tạo ra. Nó tương tự như một chiếc xe đạp để chuyên chở tư duy của chúng ta”. (Trích từ phim “Ký ức và Sự tưởng tượng” năm 1990)

2. “Tôi kiên quyết không mua nhiều thứ vì tôi nhận thấy chúng thật kỳ cục”. (Tờ Independent năm 2005)

3. “Tôi nghĩ rằng, cái chết là phát minh tuyệt vời nhất của cuộc đời. Nó loại bỏ những mô hình cũ đã trở nên lỗi thời”. (Tạp chí PlayBoy năm 1985).

4. “Mọi người cho rằng sự tập trung nghĩa là nói Có với những thứ mà họ phải dồn sức vào. Nhưng điều đó không hoàn toàn như vậy. Nó có nghĩa là phải nói Không với hàng trăm ý tưởng tốt khác. Bạn phải lựa chọn chúng một cách cẩn thận. Tôi thực sự tự hào về những việc mình Không làm, cũng như những việc Có làm. Sáng tạo là nói Không với 1.000 thứ”. (Hội nghị các nhà phát triển toàn cầu, năm 1997).

5. “Việc khắc trên bia mộ dòng chữ tôi là người giàu nhất thế gian chẳng có ý nghĩa gì lắm. Điều quan trọng là mỗi đêm trước khi đi ngủ, bạn có thể nói mình đã làm được một việc gì đó tuyệt vời”. (Tạp chí CNN Money/Fortune năm 1993).

6. “Công việc của tôi không phải là dễ dãi với người khác, mà làm sao để họ trở nên tốt hơn”. (Tạp chí CNN Money/ Fortune năm 2008)

7. “Nếu bạn muốn sống một cuộc đời theo cách sáng tạo, như một nghệ sỹ, thì bạn đừng nhìn lại quá khứ quá nhiều. Bạn phải sẵn lòng quẳng đi tất cả những gì bạn đã làm, những kiểu con người mà bạn đã từng thể hiện”. (Tạp chí Playboy năm 1985)

8. “Sự sáng tạo giúp phân biệt một nhà lãnh đạo với một người tùy tùng”. (Cuốn sách “Những bí mật sáng tạo của Steve Jobs” năm 2001).

9. “Hình mẫu kinh doanh của tôi là ban nhạc The Beatles. Họ là bốn con người hiểu rõ tính cách tiêu cực của nhau. Họ giúp cân bằng nhau và khi kết hợp lại họ trở thành một lực lượng tuyệt vời, chứ không phải là sự cộng gộp các thành phần. Đó chính là cách tôi nhìn nhận về kinh doanh: Những thứ tuyệt vời trong kinh doanh không bao giờ chỉ do một người tạo nên, mà do một nhóm người cùng tạo nên”. (Chương trình “60 phút” năm 2003)

10. “Tôi sẽ mang tất cả những công nghệ của mình để đánh đổi lấy một buổi chiều với Socrates (Triết gia Hy Lạp thời cổ đại)”. (Tạp chí Newsweek năm 2001).

Những câu nói được trích từ nội dung cuốn sách "Tôi, Steve: Steve Jobs qua lời kể của chính ông".

                                                                                       N.C.K
                                                                          (Nguồn tienphong.vn)

Tài sản mềm của nước Mỹ

Mới lập quốc hơn 200 năm, nhưng hiện nay, tài sản mềm của nước Mỹ lan tỏa khắp hoàn cầu.
Tài sản mềm của một quốc gia thường tụ hội từ nhiều nhân tố. Tài sản lớn nhất của Trung Quốc là 5 ngàn năm lịch sử và văn hóa đặc trưng của Nho giáo, thể hiện qua lối sống của 1,3 tỷ dân và hơn 100 triệu Hoa kiều. Mặt trời không bao giờ lặn trên đế chế Anh 100 năm trước, nên người Anh thường rất khôn ngoan trong những lựa chọn về chính trị, kinh tế và xã hội... vì họ đã từng trải qua bao thời vàng son cũng như khốn khổ. Hoa Kỳ thì chỉ mới lập quốc hơn 200 năm nhưng hiện nay, tài sản mềm của nước Mỹ lan tỏa khắp hoàn cầu.
Dù đa dạng, phức tạp và có  thể gây nhiều tranh cãi, trong góc nhìn của tôi, 5 tài sản mềm lớn nhất của nước Mỹ gồm có:
1. Niềm tin của người dân
Nếu hỏi một người Mỹ là họ  tin vào cái gì, ngoài đức tin vào tôn giáo riêng, câu trả lời sẽ là một giao ước xã hội (social contract).
Điều kiện đầu tiên của giao ước là tôi bình đẳng và tự do trước mọi cơ hội để mưu tìm hạnh phúc cho mình và gia đình, từ vật chất đến tinh thần. Tôi có thể là một đứa bé da mầu, lớn lên trong khu ổ chuột nhưng tôi vẫn có thể làm tổng thống hay là người giàu nhất nước Mỹ hay một văn nghệ sĩ tăm tiếng. Độ cao hay thấp của hành trình hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng và ước muốn của tôi.
Sau đó, tôi được chính phủ cam kết là không ai có quyền can thiệp hay ngăn trở bất cứ hành vi nào của tôi miễn không phạm pháp. Căn bản cũng như chi tiết của hệ thống pháp luật này phải được xây dựng hay hủy bỏ với sự đồng thuận của đa số cử tri hoặc người đại biểu do dân bầu. Và tôi tin rằng trước pháp luật, tôi sẽ được xét xử bởi những người dân khác (bồi thẩm đoàn) hoàn toàn độc lập với mọi quyền lực có thể ảnh hưởng đến kết quả.
Theo giao ước, để đánh đổi các quyền lợi trên, tôi phải có trách nhiệm tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của những công dân khác, qua bổn phận đóng thuế hay nhập ngũ. Một phần tiền thuế sẽ được dùng để cứu giúp và tạo một mạng lưới an toàn (safety net) cho những công dân kém may mắn. Điều tranh cãi thường xuyên ở đây là chính phủ được quyền lấy bao nhiêu tiền của tôi để làm chi phí điều hành cho bộ máy và bao nhiêu để giúp người khác? Đây cũng là đề tài chính cho bao cuộc vận động tranh cử tại mọi tầng lớp xã hội.
Dù thế nào, đa số người dân Mỹ tin vào giao ước xã hội này và những nhân quyền cùng sự tự do tiềm ẩn bên trong. Niềm tin là nền tảng chung cho mọi thành phần trong sự vận hành quốc gia và nó tạo sự bền vững cho mọi kế hoạch, ngắn và dài hạn, của cá nhân hay của chính phủ.
2. Văn hóa Mỹ quốc
Sau những đợt di cư đầu tiên từ Âu châu vào thế kỷ 18, nước Mỹ bắt đầu mở cửa rộng rãi đón nhận mọi sắc dân từ khắp thế giới. Họ đến với một "giấc mơ Mỹ quốc" (American dream), họ chấp nhận giao ước xã hội nói trên và đã không ngừng cùng nhau tạo dựng một nền "văn hóa Mỹ quốc" vô cùng đa dạng nhưng đặc thù, vô cùng năng động nhưng giản dị và minh bạch.
Căn bản của nền văn hóa dân gian này là sáng tạo trong trí tuệ, hăng say trong công việc, chơi đùa và mua sắm thỏa thích, tôn trọng riêng tư, không ngần ngại sử dụng quyền lực của mình, minh bạch trong thông tin, cởi mở thân thiện với người lạ và ý tưởng mới, không trừng phạt thất bại và tiếp tục cố gắng trong mọi hoàn cảnh. Trên hết, người Mỹ lạc quan vào sự thành công tối hậu của mục tiêu đời mình.
Dĩ nhiên, mặt trái của văn hóa Mỹ cho thấy nhiều nhược điểm. Như một đứa trẻ giàu có, xã hội Mỹ khá ngạo mạn và không quan tâm nhiều đến văn hóa truyền thống của nhân loại. Câu nói "my way or highway" (lối của tôi hay lối xa lộ = không theo tôi thì cút đi) thể hiện trong nhiều hành xử của người Mỹ từ chính trị đến kinh doanh. Nhưng đứa trẻ này lại rất sáng tạo trong thời đại của tri thức, tạo nên những tài sản quý báu cho kho tàng nhân loại, từ y tế đến nông nghiệp, từ IT đến giáo dục, từ tài chính đến chính trị.
3.  Nguồn trí tuệ và tài năng
Ngày xưa, mọi con đường đều dẫn đến La Mã. Ngày nay mọi tài năng đều tìm về đấu trường Mỹ. Trung tâm quyền lực chính trị và quân sự tập trung tại Washington DC; tháp cao tài chính nằm ở Wall Street; trung tâm phim ảnh là Hollywood; thế giới của công nghệ cao chọn Silicon Valley làm điểm tựa; và đỉnh cao trí tuệ là liên minh giáo dục của các đại học Ivy League.
Niềm tin về giao ước xã hội và  văn hóa cởi mở là lý do chính cho sự du nhập của các tài năng thế giới. Đất lành thì chim đậu. Sự lựa chọn môi trường Mỹ để phát huy sáng tạo và xây dựng sự nghiệp của họ là một minh chứng hữu hiệu gấp ngàn lần những khẩu hiệu rỗng tuếch hay chính sách đãi ngộ trên giấy tờ.
Như một nàng con gái đẹp, thông minh, đảm đang... nước Mỹ không thiếu những chàng trai trẻ xếp hàng cầu hôn. Ngay tại những quốc gia mà dư luận thế giới cho là có thể vượt mặt Mỹ trong vài chục năm tới như Trung Quốc, Nhật, Nga, Ấn Độ... các tài năng địa phương này đã và đang ào ạt mua vé "một chiều" qua Mỹ. Trong một nền kinh tế kiến thức, tài năng là những viên ngọc quý cho đội ngũ và Team America chắc còn nắm lợi thế cạnh tranh này trong dài hạn.
4. Thương hiệu quốc gia
Tám trong 10 thương hiệu hàng đầu của thế  giới là của Mỹ. Dù Made in Japan và Germany có thể hấp dẫn khách hàng trong vài ngành nghề và công nghệ, Made in USA tiếp tục hưởng một premium (giá nâng cấp) khá cao trong suốt 100 năm qua.
Không phải thương hiệu Mỹ không có thử thách và đối thủ nặng ký. Trong thập niên 1980 và 1990, kỹ nghệ ô tô Mỹ bị lão hóa và Toyota, Honda nhảy vào vị thế hàng đầu tại Mỹ về chất lượng và doanh thu. Nhưng GM, Ford và Chrysler đã phục hồi nhanh chóng và thương hiệu Mỹ về ô tô lại chiếm thế thượng phong trên thị trường.
Trong ngành điện thoại di động, Nokia và  RIM (Blackberry) đã nắm thời cơ và dẫn đầu thị trường trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, các công ty Mỹ lại sáng tạo và thay đổi cuộc chơi với công nghệ và ứng dụng mới. Ngày nay, hệ điều hành của Apple và Google Android đã thống lĩnh thị phần.
Sự thay máu nhanh chóng của tư duy, tầm nhìn và trí tuệ Mỹ là một vũ khí rất năng động để giữ vững giá trị của thương hiệu khi đối diện với cạnh tranh.
5. Cơ chế chính trị và xã hội
Sau cùng, các tài sản mềm trên lại  được quản lý bởi một cơ chế vô cùng bền vững suốt lịch sử non trẻ của Mỹ. Yếu tố chính là sự phân quyền rõ rệt của 3 bộ phận: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hiến pháp Mỹ không cho phép một bộ phận nào có thể thao túng một bộ phận khác bằng các cuộc bầu cử độc lập và tự do; cũng như việc chia quyền để các chính phủ tiểu bang và địa phương không bị sự khống chế của chính phủ liên bang (trung ương).
Cẩn thận hơn, các nhà khai sáng nền dân chủ Mỹ còn đặt tự do ngôn luận vào đệ tứ quyền (quyền lực thứ 4) để đảm bảo minh bạch và đầy đủ thông tin từ các mạng truyền thông.
Cơ chế nào cũng đều tồn tại những sai lầm hay xung đột mâu thuẫn. Tuy nhiên, nền tảng phân quyền và dân chủ tạo nên một minh bạch rất cần thiết để ngăn ngừa sai phạm. Những tranh luận tự do khắp nơi khắp lúc đem đến cho người dân một cảm nhận là họ đang tham dự vào việc điều hành đất nước và mọi quyết định quan trọng về hướng đi của chính sách công phải được sự đồng ý của họ. Cơ chế này là yếu tố quan trọng để tạo niềm tin.
***
Tóm lại, có thể thấy trong lịch sử cũng như hiện tại, vị thế của nước Mỹ được xây dựng không phải chủ yếu dựa trên chiến lược tài chính, sức mạnh quân sự hay thủ thuật chính trị,... Chính các tài sản mềm quý báu mới là nhân tố trọng yếu giúp quốc gia này giữ vững vị thế.
Cố Tổng thống J. F. Kennedy từng bày tỏ rõ ràng về giá trị của tài sản Mỹ: "Chúng ta phải tin là dân Mỹ đủ trí khôn để phán xét các sự kiện bất ổn, các ý tưởng ngoại lai, các triết thuyết lạ kỳ và các giá trị khác biệt. Bởi vì một quốc gia không dám để cho người dân quyền quyết đoán về sự thật và giả dối trong một môi trường tự do là một quốc gia sợ sệt ngay chính người dân của mình".

                                                                                                Tác giả: TS. Alan Phan
                                                                                                 (Nguồn tuanvietnam.net)