Tuesday, September 18, 2012

Nếu chiến tranh Trung-Nhật xảy ra, bên nào sẽ thắng?

Hiện nay Nhật Bản vẫn mang hình ảnh là quốc gia yếu về quân sự, nhưng theo các nhà phân tích quốc phòng, nếu chiến tranh hải quân xảy ra sẽ không là một cuộc chiến dễ xơi cho láng giềng Trung Quốc.
* Chỉ là giả định, nhưng nếu chiến tranh Trung - Nhật nổ ra, bên nào sẽ thắng? Bài viết sau đây sẽ giúp các quí vị có thêm tư liệu để suy ngẫm.
Công tước Wellington đã miêu tả chiến thắng của quân đồng minh trong trận Waterloo là "trận đánh lớn nhất bạn từng thấy trong cuộc đời". Nhưng với một cuộc đụng độ giữa các lực lượng Trung Quốc và Nhật Bản nếu xảy ra ra trong trận chiến tại quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, hay ở những nơi khác ở ngoài khơi bờ biển Đông Bắc Á, thì hậu quả của nó chắc cũng không kém nhận xét trên của Wellington.
Một trận chiến như vậy đã có khả năng diễn ra trước năm 2010, khi cảnh sát biển Nhật Bản bắt giữ các ngư dân Trung Quốc do đâm vào một trong các tàu của lực lượng này ở ngay tại vùng đảo tranh chấp, và hiện nay, nguy cơ ấy lại xuất hiện. Sau khi Nhật Bản bắt giữ rồi trục xuất các nhà hoạt động Trung Quốc đổ bộ lên các đảo tranh chấp hồi giữa tháng 8, một thiếu tướng diều hâu Trung Quốc, La Viện, đã kêu gọi Trung Quốc phái 100 tàu tới bảo vệ Điếu Ngư. Trong một phản hồi đăng ngày 20/8, tờ Thời báo hoàn cầu của Trung Quốc, nêu rõ, "Nhật Bản sẽ phải trả giá cho những hành động của mình... và kết cục sẽ còn tồi tệ hơn nhiều những gì họ suy nghĩ".
Và Trung Quốc đã không nói suông. Tháng 7, Hạm đội Hoa Đông của Trung Quốc đã tiến hành một cuộc tập trận mô phỏng một cuộc tấn công đổ bộ lên đảo. Các nhà cầm quyền Trung Quốc rõ ràng đang nghĩ đến những điều không thể. Và với những người biểu tình đổ ra đường và đập vỡ những chiếc xe hơi Nhật, tấn công vào các nhà hàng sushi, thì người dân Trung Quốc có vẻ cũng đang ủng hộ giới lãnh đạo của mình.
Vậy ai sẽ thắng trong một cuộc đấu giữa hai người khổng lồ Thái Bình Dương: Trung Quốc hay Nhật Bản?
Hiện nay Nhật Bản vẫn mang hình ảnh là một quốc gia yếu về quân sự, nhưng chiến tranh hải quân sẽ không là một cuộc đấu dễ cho Trung Quốc. Trong khi hiến pháp "hòa bình" ra đời từ sau thế chiến thứ hai của Nhật Bản "cam kết vĩnh viễn không phát động chiến tranh như là một phương tiện giải quyết xung đột quốc tế bao gồm chiến tranh xâm phạm chủ quyền dân tộc và các hành vi vũ lực hoặc các hành vi đe doạ bằng vũ lực", thì kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Cảnh sát biển Nhật Bản (JMSDF) vẫn duy trì được một số sự ưu việt, như sức chiến đấu trên biển. Lính thủy quân lục chiến Nhật Bản nổi tiếng về tính chuyên nghiệp.
Nếu các tư lệnh giỏi dụng "binh pháp" và tận dụng các lợi thế địa lý, Tokyo có thể biến một cuộc chiến hải quân với Trung Quốc trở thành một trận đánh lớn - và hoàn toàn có khả năng giành phần thắng.
Chiến tranh hải quân giữa hai đối thủ này đã mở đầu cho những tranh cãi biển đảo hiện nay. Trong cuộc chiến Trung - Nhật năm 1894-1895, hạm đội của Hải quân hoàng gia Nhật Bản đã đảo ngược trật tự Trung Quốc là trung tâm của châu Á chỉ trong một buổi chiều. Hạm đội được thành lập vội vàng với những tàu và thiết bị sau thời Minh Trị Duy Tân ấy đã đập tan Hạm đội Bắc Dương của Trung Quốc được coi là vượt trội hơn về mặt trang thiết bị. Nhật Bản giành chiến thắng trong trận chiến trên sông Áp Lục vào tháng 9/1894 nhờ nghệ thuật điều khiển tàu, sử dụng pháo binh và tinh thần thủy thủ cao hơn.
Ngày nay, Nhật Bản không còn là một cường quốc đang trỗi dậy nữa, nhưng lực lượng cảnh sát biển nước này vẫn duy trì được ưu thế về mặt con người này.
Nếu một trận chiến Áp Lục tái diễn, hải quân Nhật Bản có thể có cách nào chống lại Trung Quốc? Một cuộc chiến trực diện Trung Quốc-Nhật Bản khó có thể nổ ra trừ khi khi Bắc Kinh cô lập được Tokyo về mặt ngoại giao hay Tokyo tự cô lập mình thông qua một chính sách ngoại giao khờ dại. Còn không, xung đột sẽ chắc chắn có sự xuất hiện của Mỹ như là một bên tham chiến tích cực đứng về phía Nhật Bản.
Chiến tranh là một màn kịch chính trị - "tài của nhà chính trị dẫn lối vũ trang", như sử gia Alfred Thayer Mahan từng nói - nhưng hãy tạm bỏ qua chính trị và tìm hiểu viễn cảnh chiến tranh trên phương diện quân sự, như một cuộc tỷ thí giữa sức mạnh trên biển của Trung Quốc và Nhật Bản.
Nếu chỉ tính riêng các con số có lẽ sẽ không thể có một cuộc đấu nào ở đây. Hải quân Nhật Bản có 48 "tàu chiến mặt nước lớn", loại tàu được thiết kế để hạm đội tấn công chính của kẻ thù trong khi rất khó bị đánh bại. Đối với JMSDF, các tàu này bao gồm "tàu khu trục máy bay" hay còn gọi là tàu sân bay nhẹ; tàu có tên lửa dẫn đường được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis, một hệ thống kết hợp radar, máy tính và điều khiển hỏa lực thường thấy ở các tàu chiến hàng đầu của hải quân Mỹ; và một tập hợp tàu khu trục và tàu hộ tống nhỏ. Ngoài ra còn có một đội tàu chiến gồm 16 tàu ngầm chạy diesel-điện hỗ trợ cho hạm đội mặt nước. Đặt cạnh con số 73 tàu chiến đấu mặt nước lớn của hải quân PLA, 84 máy bay tuần tra trang bị tên lửa và 63 tàu ngầm, sự so sánh có phần yếu thế cho Nhật Bản. Hải quân Trung Quốc vượt trội hơn nếu chỉ tính về "khối lượng sắt thép".
Nhưng ta không nên đem ra so sánh những con số trên vì ba lý do. Thứ nhất, như nhà chiến lược Edward Luttwak quan sát, vũ khí giống như "những chiếc hộp đen" cho tới khi được sử dụng trong chiến đấu: không ai biết chắc các phương tiện này có hoạt động như giới thiệu hay không. Chiến tranh, chứ không phải những thông số kỹ thuật, mới là trọng tài công bằng của công nghệ quân sự.
Việc dự đoán chính xác việc tàu chiến, máy bay, và tên lửa hoạt động ra sao trong hoàn cảnh căng thẳng và hỗn loạn của một cuộc chiến do vậy là điều gần như không thể. Điều này đặc biệt đúng khi xung đột diễn ra giữa một xã hội mở với một xã hội đóng. Xã hội mở có xu hướng tranh luận công khai những thất bại quân sự trong khi những xã hội đóng có xu hướng che đậy những kết quả xấu.
Số liệu thống kê trong cuộc đối đầu Mỹ-Liên Xô cũng có thể áp dụng giống như trong cuộc cạnh tranh Trung-Nhật hiện nay. Hải quân Liên Xô tỏ ra áp đảo trên mặt báo. Nhưng tàu chiến của Liên Xô tại các vùng biển sâu trong Chiến tranh lạnh thì thể hiện nhiều dấu hiệu yếu kém, từ thủy thủ cầm lái cho tới thân tàu. Hải quân PLA có thể cũng đang che đậy điều gì đó.
Chất lượng nền tảng của JMSDF, và năng lực con người, có thể bù đắp một phần hay toàn bộ cho những yếu thế về mặt con số của hải quân Nhật so với PLA.
Thứ hai là biến số con người trong chiến tranh. Trong giải trình về Chiến tranh hải quân 1812, Theodore Roosevelt giải thích, thành công của Hải quân Mỹ trong cuộc đối đầu tàu chiến với Hải quân Hoàng gia Anh là sản phẩm của thiết kế và xây dựng tàu chiến chất lượng và kỹ năng chiến đấu vượt trội: nói cách khác là kết quả của hai nhân tố vật tư và con người kết hợp.
Yếu tố con người được đánh giá ở khả năng điều khiển tàu chiến, sử dụng pháo binh, và vô số các kỹ năng tạo nên sự khác biệt cho mỗi lực lượng hải quân. Lính thủy đánh bộ trau dồi các kỹ năng này không phải bằng cách ngồi ở cảng và đánh bóng quân dụng của mình, mà phải tiến ra biển. Các đội tàu của JMSDF thường tổ chức luyện tập một mình hoặc kết hợp với hải quân các nước khác, trong khi hải quân PLA thì ít hơn. Trừ ngoại lệ triển khai tàu chống cướp biển sang Vịnh Eden bắt đầu năm 2009, các hạm đội tàu của Trung Quốc chỉ xuất hiện trong các chuyến du hành hay tập trận ngắn ngủi, khiến cho các thủy thủ có ít thời gian có thể hoạt động nhịp nhàng, nâng cao trình độ và xây dựng thói quen lành mạnh. Lợi thế nhân lực đang thuộc về Nhật Bản.
Và thứ ba, sẽ là sai lầm nếu chỉ bó gọn trong vấn đề giữa các đội tàu với nhau. Chắc chắn sẽ không thể có một cuộc chiến đơn thuần giữa các hạm đội tại Đông Bắc Á. Địa lý đặt hai người khổng lồ châu Á liền kề nhau: các đảo lớn, bao gồm cả các đảo ở phía xa, chính là những tàu sân bay và bệ phóng tên lửa không thể bị đánh chìm. Những vị trí mặt đất này nếu được trang bị và củng cố hợp lý chính là những yếu tố không thể thiếu giúp triển khai sức mạnh trên biển. Do vậy cũng cần phải tính đến yếu tố hỏa lực từ mặt đất của hai quốc gia.
Nhật Bản đã tạo lập được một "lá chắn vòng cung" ở phía bắc bao gồm một chuỗi đảo đầu tiên bao quanh đường bờ biển của quốc gia châu Á này, tạo dựng một ranh giới phía tây ở Hoàng Hải và Hoa Đông. Không có đảo nào nằm giữa eo biển Tsushima (ngăn cách Nhật Bản với Hàn Quốc) và Đài Loan nằm cách bờ biển Trung Quốc quá 500 dặm (hơn 800km). Hầu hết các đảo, bao gồm cả đảo Senkaku/Điếu Ngư, đều ở gần hơn nhiều. Với một vùng biển chật hẹp như vậy, bất kỳ chiến trường nào cũng sẽ nằm trong tầm bắn của hỏa lực trên bờ. Quân đội cả hai nước đều sở hữu máy bay tác chiến có bán kính không kích trong khắp Hoàng Hải và Hoa Đông và sang tận tây Thái Bình Dương. Cả hai nước đều sở hữu tên lửa hành trình chống hạm phóng từ bờ biển (ASCM), giúp bổ sung cho sức mạnh tổng hợp của mình.
Tuy nhiên, cũng có những sự chênh lệch. Tên lửa đạn đạo thông thường của PLA có thể đánh vào các vị trí trên đất liền ở khắp châu Á, đặt các tài sản thiết bị của  Nhật Bản vào thế nguy hiểm trước khi kịp rời cảng hay bay lên trời. Và Lực lượng pháo binh thứ hay, hay còn gọi là lữ đoàn tên lửa, của Trung Quốc được cho là có các tên lửa đạn đạo đối hạm (ASBM) có khả năng bắn từ đất liền hạ tàu thuyền qua lại trên biển. Với tầm bắn ước tính hơn 900 dặm (1.400km), tên lửa ASBM có thể bắn tới bất kỳ nơi nào trong các vùng biển bao quanh Trung Quốc, bao gồm cả các cảng biển trên khắp các đảo của Nhật Bản và xa hơn.
Theo đánh giá của Nhật Bản, quần đảo Senkaku được xem là tài sản khó bảo vệ nhất. Các đảo này nằm gần cực nam của chuỗi đảo Ryukyu, gần với Đài Loan hơn Okinawa hay các đảo lớn của Nhật Bản. Sẽ không dễ bảo vệ quần đảo từ các căn cứ ở xa. Nhưng nếu Nhật Bản triển khai hệ thống vũ khí di động đối hạm Type 88 ASCM và các đội tên lửa tới những đảo nhỏ và các đảo gần chuỗi Ryukyu, đội quân mặt đất của Nhật Bản có thể tạo ra các khu vực vũ khí khai hỏa đan xen và biến các vùng biển gần bờ đó thành vùng không thể hoạt động đối với tàu Trung Quốc. Một khi đã được đưa vào, chúng sẽ rất khó bị đánh bật ra khỏi vị trí, ngay cả đối với các chuyên gia tên lửa và phi công Trung Quốc có quyết tâm.
Bất kỳ quân đội nước nào kết hợp được sức mạnh lực lượng hải quân, bộ binh, không quân để trở thành vũ khí sắc bén nhất cho một cuộc chiến đấu trên biển sẽ có cơ hội giành chiến thắng lớn hơn. Cơ hội này có thể thuộc về Nhật Bản nếu giới lãnh đạo chính trị và quân đội nước này tư duy sáng tạo, sắm sửa đúng loại vũ khí cần thiết và đặt chúng vào vị trí phát huy được tối ưu các khả năng. Dù sao Nhật Bản không cũng cần phải đánh bại quân đội Trung Quốc để giành chiến thắng trước một cuộc đối đầu trên biển, vì nước này đang kiểm soát quần đảo Senkaku là mục tiêu tranh chấp; tất cả những gì Nhật Bản cần làm là chống Trung Quốc tiếp cận khu vực này. Nếu các vùng biển Đông Bắc Á trở thành đất vô chủ trong khi quân đội Nhật Bản vẫn duy trì tại đây, thì chiến thắng chính trị sẽ thuộc về Nhật Bản.
Nhật Bản còn chiếm ưu thế nhờ mật độ tập trung các lực lượng của mình, trong khi Hải quân PLA bị phân tán thành ba hạm đội ra khắp bờ biển dài của Trung Quốc. Các tướng lĩnh Trung Quốc đang ở trong một thế lưỡng nan: nếu họ tập trung lực lượng quy mô lớn để tạo ưu thế về quân số trong cuộc chiến với Nhật Bản thì những khu vực khác của Trung Quốc sẽ không được bảo vệ. Việc bỏ rơi Biển Đông trong khi tham chiến ở Đông Bắc Á sẽ là điều nguy hiểm đối với Trung Quốc.
Và cuối cùng, các lãnh đạo Trung Quốc sẽ buộc phải xem xét một cuộc chiến trên biển sẽ khiến khả năng triển khai sức mạnh hải quân của họ bị hạn chế đến mức nào. Trung Quốc đã đặt cược lớn tương lai kinh tế và ngoại giao của mình vào lực lượng hải quân. Tháng 12/2006, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã chỉ thị có các tư lệnh PLA xây dựng "lực lượng hải quân nhân dân hùng mạnh" để có thể bảo vệ biên giới quốc gia trên biển - đặc biệt là các tuyến hàng hải kết nối giữa những nhà xuất khẩu năng lượng từ Ấn Độ Dương với người dùng Trung Quốc - "ở mọi thời điểm". Để thực hiện chỉ thị này đòi hỏi rất nhiều tàu. Nếu dồn phần lớn đội tàu cho cuộc đụng độ với Nhật Bản, thì cho dù có giành chiến thắng, Bắc Kinh có thể sẽ phải chứng kiến vị thế cường quốc của mình bị đảo ngược chỉ trong một buổi chiều.
                                                        Đình Ngân theo foreign policy
                                                             (Nguồn vietnamnet.vn)

CHIẾN TRANH SẼ NỔ RA TRÊN CÁC VÙNG BIỂN ĐÔNG Á?

Các chính sách của Trung Quốc đã làm tổn hại nghiêm trọng tới mối quan hệ với gần như tất cả các nước láng giềng.
Sau khi những người dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc và Nhật Bản tổ chức đổ bộ lên những khối đất hoang mà Trung Quốc gọi là quần đảo Điếu Ngư còn Nhật Bản gọi là Sankaku, những người biểu tình giận dữ tại thành phố Thành Đô ở miền tây nam Trung Quốc hô vang khẩu hiệu: "Phải diệt hết bọn Nhật".
Tương tự, cuộc đối đầu giữa tàu Trung Quốc và Philippine tại bãi cạn Scarborough trên Biển Đông đã dẫn tới hàng loạt cuộc biểu tình tại Manila. Và bước tiến dài những tưởng sắp đạt được trong mối quan hệ hợp tác giữa Hàn Quốc và Nhật Bản thì cuối cùng lại đổ vỡ khi Thủ tướng Hàn Quốc tới thăm hòn đảo hoang mà nước này gọi là Dokdo, còn Nhật Bản gọi là Takeshima, trong khi Mỹ gọi là bãi đá Liancourt.
Thực tế, mọi chuyện chưa đến mức quá gây hoang mang. Mỹ tuyên bố quần đảo Senkaku (đang thuộc quản lý của thành phố Okinawa từ khi Mỹ trao trả lại cho Nhật Bản vào năm 1972) nằm trong hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật. Trong khi đó, cuộc đối đầu tại bãi cạn Scarborough đã dịu xuống, và trong khi Nhật Bản triệu hồi đại sứ Hàn Quốc để thông báo về vụ việc Dokdo, cũng rất có khả năng hai nước sẽ bước vào một cuộc chiến.
Những cũng cần nhớ rằng Trung Quốc là lực lượng phá hoại đã tấn công và đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào năm 1974 và 1988. Và Trung Quốc đã gây áp lực lên nước chủ nhà Campuchia trước Hội nghị thượng đỉnh ASEAN năm nay để cản trở hội nghị thông qua bản thông cáo chung trong đó kêu gọi tiến tới một bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông - lần đầu tiên trong lịch sử 40 năm tồn tại, hiệp hội của 10 thành viên Đông Nam Á không thể đưa ra thông cáo chung kết thúc hội nghị.
Sự trở lại của chủ nghĩa dân tộc cực đoan tại Đông Á vừa đáng lo ngại nhưng cũng vừa dễ hiểu. Ở châu Âu, trong khi Hy Lạp có thể than phiền về các điều kiện để được Đức ủng hộ tài trợ khẩn cấp, nhưng rõ ràng giai đoạn kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã chứng kiến những tiến bộ lớn trong việc gắn kết các quốc gia khu vực với nhau. Nhưng điều tương tự chưa khi nào diễn ra ở châu Á, các vấn đề xuất phát từ những năm 1930 và 1940 vẫn còn đeo đẳng, và càng trở nên trầm trọng hơn bởi những cuốn sách giáo khoa bị bóp méo cùng với chính sách của các chính phủ.
Đảng Cộng sản Trung Quốc không còn như xưa. Thay vào đó, họ duy trì tính chính danh của mình dựa trên tăng trưởng và chủ nghĩa dân tộc người Hán. Ký ức của cuộc chiến tranh Trung-Nhật 1894-1895 và hoạt động khiêu chiến của Nhật Bản những năm 1930 có ích và phù hợp về mặt chính trị trong chủ đề rộng hơn về những sự chà đạp mà người dân Trung Quốc phải chịu đựng từ các thế lực đế quốc.
Một số nhà phân tích quốc phòng Mỹ nhìn nhận chiến lược biển của Trung Quốc là sự gây hấn rõ ràng. Họ lấy minh chứng là sự gia tăng chi tiêu quốc phòng và phát triển công nghệ tên lửa và tàu ngầm được thiết kế để bảo vệ vùng biển trải rộng từ bờ biển Trung Quốc đến "chuỗi đảo đầu tiên" của Đài Loan và Nhật Bản.
Trong khi đó, những người khác lại thấy chiến lược của Trung Quốc rất mù mờ, mâu thuẫn và bị tê liệt bởi những lợi ích quan liêu cạnh tranh nhau. Họ chỉ ra kết quả tiêu cực của những chính sách quyết liệt hơn của Trung Quốc từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế 2008. Quả thực, các chính sách của Trung Quốc đã làm tổn hại nghiêm trọng tới mối quan hệ với gần như tất cả các nước láng giềng.
Hãy xem xét vụ việc tại Senkaku năm 2010, sau khi Nhật Bản bắt giữ đoàn thủy thủ của một tàu Trung Quốc va vào tàu cảnh sát biển Nhật Bản, Trung Quốc đã leo thang trả thù kinh tế. Kết quả, như một nhà phân tích người Nhật diễn tả, là "Trung Quốc đã tự đốt lưới nhà", làm đảo ngược những gì đang là một xu hướng có lợi trong mối quan hệ song phương dưới thời Đảng Dân chủ Nhật Bản cầm quyền. Nói rộng hơn, trong khi Trung Quốc chi hàng tỷ Nhân dân tệ cho nỗ lực tăng cường quyền lực mềm tại châu Á, cách ứng xử của nước này tại Biển Đông đã tự mâu thuẫn với thông điệp mà họ muốn hướng tới.
Tôi đã hỏi một số người bạn cũng như quan chức Trung Quốc tại sao Trung Quốc lại theo đuổi một chiến lược phản tác dụng như vậy. Câu trả lời đầu tiên và chính thức là Trung Quốc kế thừa các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ đã có từ lịch sử, bao gồm một bản đồ từ Quốc dân Đảng, những người đã tô vẽ ra "đường chín đoạn" bao trùm gần như toàn bộ Biển Đông. Ngày nay, với công nghệ cho phép khai thác nguồn tài nguyên dưới đáy cũng như hải sản tại vùng biển, thật khó có thể từ bỏ "di sản của tổ tiên" này. Năm 2009-2010, một số quan chức cấp trung và nhà bình luận thập chí còn nhắc đến Biển Đông là "lợi ích quốc gia cốt lõi", có vị trí ngang bằng với Đài Loan và Tây Tạng.
Nhưng giới lãnh đạo Trung Quốc chưa bao giờ rõ ràng về vị trí chính xác của "đường chín đoạn" đến đâu, hoặc về việc những tuyên bố chủ quyền của họ chỉ bao gồm những đảo và bãi đá nhất định, hay với cả thềm lục địa trải rộng và các vùng biển bao quanh. Khi được hỏi tại sao họ không làm rõ những tuyên bố này, những người đối thoại phía Trung Quốc đôi khi nói làm như vậy sẽ đòi hỏi phải có một sự thỏa hiệp chính trị và quan liêu rất khó khăn mà có thể kích động chủ nghĩa dân tộc trong nước.
Ngoài ra có người thì nói họ không muốn cho đi một con bài mặc cả khi chưa chín muồi. Năm 1995, và năm 2010, Mỹ tuyên bố các vùng biển của Biển Đông nên được quản trị theo Công ước LHQ về Luật Biển 1982 (mỉa mai là Mỹ lại chưa thông qua luật biển này) nhưng Mỹ không nêu lập trường về các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ. Thay vào đó, Mỹ hối thúc các bên tranh chấp giải quyết thông qua đàm phán.
Năm 2002, Trung Quốc và ASEAN ký kết một bộ quy tắc không mang tính ràng buộc pháp lý về quản lý những tranh chấp như vậy, nhưng khi là một cường quốc, Trung Quốc tin rằng họ sẽ thu về nhiều hơn trong các cuộc đàm phán song phương hơn là đa phương với các nước nhỏ. Lòng tin đó đứng đằng sau áp lực mà Trung Quốc gây lên Campuchia để ngăn cản bản thông cáo chung của ASEAN mùa hè này.
Nhưng đây chính là một chiến lược sai lầm. Là một cường quốc, Trung Quốc sẽ có trọng lượng trong bất kỳ trường hợp nào và có thể giảm thiểu những thiệt hại tự mình gây ra khi ký kết một bộ quy tắc ứng xử.
Về quần đảo Senkaku/Diaoyu, nên làm theo kiến nghị của tờ The Economist. Trung Quốc nên ngừng cử các tàu chính thức đi vào các vùng biển của Nhật Bản và sử dụng đường dây nóng với Nhật Bản để quản lý khủng hoảng từ những người chủ nghĩa dân tộc gây ra. Cùng với đó, hai nước nên khôi phục khuôn khổ khai thác chung các mỏ khí trên biển Hoa Đông năm 2008, và chính quyền trung ương Nhật Bản nên mua lại các đảo hoang từ chủ sở hữu tư nhân và tuyên bố chúng là một khu bảo tồn biển quốc tế.
Đã đến lúc tất cả các quốc gia châu Á nhớ lại lời khuyên nổi tiếng của Winston Churchill: "Đối thoại luôn tốt hơn chiến tranh".
                                                                        Đình Ngân theo sundayszaman
                                                                              (Nguồn vietnamnet.vn)

Monday, September 17, 2012

'Tranh chấp lãnh thổ ở châu Á có thể thành chiến tranh'

Đó là nhận định của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta trước khi ông tới Nhật Bản để bắt đầu chuyến công du châu Á - Thái Bình dương.

Phát biểu trước báo giới, ông Panetta kêu gọi sự kiềm chế trong bối cảnh căng thẳng gia tăng liên quan tới các tranh chấp chủ quyền tại biển Hoa Đông và Biển Đông.
"Tôi quan ngại rằng khi các nước tiến hành các hoạt động khiêu khích theo cách này hay cách khác có liên quan tới những hòn đảo, nó sẽ làm tăng khả năng đánh giá sai lầm của bên này hay bên khác và có thể dẫn tới bạo lực cũng như xung đột", AFP dẫn lời ông Panetta nói. "Và xung đột đó tiềm ẩn khả năng lan rộng".
Chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tới Nhật diễn ra trùng với thời điểm quan hệ Tokyo - Bắc Kinh xấu đi, liên quan tới quần đảo Senkaku theo cách gọi của Nhật Bản, hay Điếu Ngư theo tiếng Trung Quốc. Quan hệ Trung - Nhật bắt đầu căng thẳng hồi tháng trước khi một nhóm người Hong Kong tới một trong các đảo thuộc chuỗi đảo Senkaku/Điếu Ngư. Họ bị nhà chức trách Nhật bắt giữ nhưng được thả sau đó. Vài ngày sau, một nhóm người Nhật kéo quốc kỳ nước này trên chính hòn đảo nói trên, dẫn tới sự phản ứng từ Trung Quốc.
Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư thuộc biển Hoa Đông. Nó cách Naha, thành phố chính trong chuỗi đảo Okinawa của Nhật, khoảng 400 km và Đài Loan khoảng 200 km.
Panetta cho hay ông và Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đều kêu gọi các nước liên quan tới những tranh chấp biển đảo cùng nỗ lực tìm kiếm những biện pháp để giải quyết hòa bình các vấn đề. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ cũng dự đoán rằng sự cạnh tranh cạnh kinh tế sẽ dẫn tới nhiều căng thẳng hơn nữa trong tương lai, có liên quan tới những khu vực được cho là giàu tài nguyên tại khu vực châu Á - Thái Bình dương.
Chuyến công du của ông Panetta là một nỗ lực của chính quyền Tổng thống Barack Obama nhằm thay đổi trọng tâm quân sự và ngoại giao của Mỹ tới châu Á, trong bối cảnh Trung Quốc ngày một thể hiện sự lớn mạnh. Tuy nhiên, dư luận nghi ngờ việc Lầu Năm Góc có đủ nguồn lực để thể hiện ảnh hưởng một cách có hiệu quả tại châu Á, đặc biệt khi Mỹ phải đối mặt với những cuộc khủng hoảng liên tiếp ở Trung Đông.
                                              Nhật Nam
                                              (Nguồn vnexpress)

Saturday, September 15, 2012

CÔNG BẰNG

Xã hội vốn dĩ rất công bằng
Mỗi người mỗi việc chớ băn khoăn
Tận tâm dốc sức vì nghĩa lớn
Thành tựu ngày sau, có nhọc nhằn?.

                                PUT
                       Ngày 20/2/2009
     

LỀ PHẢI LỀ TRÁI 2

Lề phải mà không phải,
Lề trái mà không trái,
Trái phải sẽ về đâu?
Sao lòng người ái ngại.

Có phải tâm trống trải?
Không phân biệt phải trái!
Hay tinh thần thoải mái?
Nào biết đâu trái phải!.

Lề trái và lề phải,
Cùng tương hổ với nhau,
Nếu không có lề trái,
Nào có đâu lề phải.

Ta luôn giữ lẽ phải,
Tránh những điều ngang trái,
Tránh những việc không phải,
Để lòng khỏi tê tái.

Dù lề phải hay trái!
Xin giữ chặt tay lái.
Đó mới là bản lãnh,
Của một đấng anh tài.

                  PUT
         Ngày 14/9/2012